Đó là Kinh tế

24 11 / 2021
Đăng bởi: lovebird21c

Đó là Kinh tế

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


It’s the Economy

Đó là Kinh tế

 


 

Americans have struggled mightily since the nation’s birth to overcome racial prejudice.

Người Mỹ đã đấu tranh kịch liệt kể từ khi quốc gia này ra đời để vượt qua định kiến chủng tộc.

 

 

Recently, as symbolized by President Obama’s ascendancy and his message of racial reconciliation, we have basically succeeded and are now healing from our racial wounds.

Gần đây, như được biểu trưng bởi uy quyền của Tổng thống Obama và thông điệp hòa giải chủng tộc của ông, chúng ta đã thành công về căn bản và hiện đang hàn gắn những vết thương chủng tộc của mình.

 

 

Or so the story goes.

Hoặc như người ta đồn thế.

 

 

In “A Dreadful Deceit,” the distinguished historian Jacqueline Jones vehemently rejects this redemptive and self-congratulatory narrative.

Trong cuốn sách “A Dreadful Deceit” (“Sự lừa dối kinh hoàng”), nhà sử học đáng kính Jacqueline Jones đã cực lực bác bỏ câu chuyện cứu rỗi và tự khen ngợi này.

 

 

She believes that the country’s racial problems have little to do with racism and everything to do with economic exploitation.

Bà tin rằng các vấn đề chủng tộc của quốc gia hầu như chẳng liên quan đến nạn phân biệt chủng tộc mà chủ yếu là liên quan đến sự bóc lột kinh tế.

 

 

And, she claims, we have not even begun to come to terms with this.

Và, bà tuyên bố, chúng ta thậm chí còn chưa bắt đầu chịu chấp nhận điều này.

 

 

Jones is the author of numerous books, including “Labor of Love, Labor of Sorrow,” which won the Bancroft Prize in 1986.

Jones là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm cuốn “Labor of Love, Labor of Sorrow,” (“Lao động vì yêu thương, Lao động vì đau khổ”), đã giành được Giải thưởng Bancroft năm 1986.

 

 

This new book, a sweeping account of the role of race in American history, is structured around the stories of six extraordinary but largely unknown individuals, each of African descent.

Cuốn sách mới này [“A Dreadful Deceit”], một câu chuyện miêu tả rất bao quát về vai trò của chủng tộc trong lịch sử nước Mỹ, được xây dựng xoay quanh những câu chuyện về sáu cá nhân phi thường nhưng hầu như không được biết đến, mỗi người đều gốc Phi.

 

 

There’s Antonio, murdered in colonial Maryland for refusing to submit to enslavement; Boston King, a former slave from South Carolina turned loyalist during the American Revolution; the Afro-Indian Elleanor Eldridge, who started several successful businesses in Providence, R.I., in the early 19th century; the Reconstruction-era Georgia politician Richard W. White; the early-20th-century educator William H. Holtzclaw, who founded a Tuskegee-like school in Mississippi; and finally the radical labor activist Simon P. Owens in mid-20th-century Detroit.

Có Antonio, bị sát hại ở Maryland thời thuộc địa vì không cam chịu làm nô lệ; Boston King, một cựu nô lệ ở Nam Carolina trở thành người trung thành trong cuộc Cách mạng Mỹ; Elleanor Eldridge gốc Ấn-Phi, người đã khởi sự một số cơ sở kinh doanh thành công ở Providence, Rhode Island đầu thế kỷ 19; Richard W. White, chính trị gia ở bang Georgia thời Tái thiết; nhà giáo dục đầu thế kỷ 20 William H. Holtzclaw, người đã thành lập một trường học giống trường Tuskegee [dành cho người Mỹ gốc Phi] ở Mississippi; và cuối cùng là nhà hoạt động lao động cấp tiến Simon P. Owens ở Detroit giữa thế kỷ 20.

 

 

Her book is a call to renounce the very idea of race as a dangerous misconception.

Cuốn sách của bà là lời kêu gọi phản đối chính cái ý tưởng về chủng tộc như một nhận thức sai lầm nguy hại.

 

 

This argument will be familiar to scholars, but Jones seeks to bring it to a broader audience.

Chủ đề này chẳng có gì xa lạ đối với các học giả, nhưng Jones tìm cách đưa nó đến với nhiều độc giả hơn.

 

 

To explain how racial conflict has masked power struggles for control over others’ labor, Jones surveys compelled work in its many varieties, from slave labor under the lash on tobacco plantations in Maryland to mandatory overtime in unsafe and sweltering auto plants in Detroit.

Để giải thích sự xung đột chủng tộc đã che đậy những cuộc tranh đấu của các thế lực để giành quyền kiểm soát sức lao động của người khác như thế nào, Jones khảo sát lao động cưỡng bức dưới nhiều dạng khác nhau, từ lao động nô lệ dưới làn roi vọt tại các đồn điền thuốc lá ở Maryland cho đến việc bắt buộc làm thêm giờ trong các nhà máy ôtô ngột ngạt và không an toàn ở Detroit.

 

 

Racial ideologies, she argues, are like mob violence, disenfranchisement and discriminatory laws — merely tactics used to secure material advantages in social contexts perceived as zero-sum.

Bà lập luận rằng ý thức hệ chủng tộc, cũng giống như bạo lực của đám đông, việc tước quyền công dân và luật phân biệt đối xử – chỉ đơn thuần là những chiến thuật được sử dụng để đảm bảo lợi thế vật chất trong những bối cảnh xã hội được coi là có tổng bằng không.

 

 

So the refusal of white colonists to recognize black claims to equal liberty was not premised on racial considerations, Jones argues, but on naked self-interest.

Thế nên việc giới thực dân da trắng từ chối công nhận những đòi hỏi về quyền tự do bình đẳng của người da đen không dựa trên những lý do chủng tộc, Jones lập luận, mà hiển nhiên là vì tư lợi.

 

 

She acknowledges that intellectuals like Thomas Jefferson were moved to reconcile Enlightenment values with slavery.

Bà thừa nhận rằng những trí thức như Thomas Jefferson đã bị lay động mà dung hòa các nguyên lý Khai sáng với chế độ nô lệ.

 

 

But most propertied white men didn’t see a need to justify their dominance apart from citing their economic interests, the same interests that led them to exploit Indians, poor whites and women.

Nhưng hầu hết những người da trắng giàu có không thấy cần phải biện minh gì cho sự thống trị của họ ngoài việc viện dẫn những lợi ích kinh tế của mình, cũng là những lợi ích đã khiến họ bóc lột người da đỏ, người da trắng nghèo khó và phụ nữ.

 

 

A racial justification for slavery emerged only in the 19th century, in response to the Northern abolitionist movement.

Sự biện minh chủng tộc cho chế độ nô lệ chỉ mới nổi lên vào thế kỷ 19, để phản ứng lại phong trào bãi nô của miền Bắc.

 

 

Similarly, Jones describes early-19th-century white working-class hostility to blacks as springing from economic competition.

Tương tự như vậy, Jones miêu tả sự hằn thù của tầng lớp lao động da trắng đối với người da đen hồi đầu thế kỷ 19 xuất phát từ sự cạnh tranh kinh tế.

 

 

“By keeping blacks in menial jobs permanently,” she writes, “whites might reserve new and better opportunities for themselves and ensure that someone else did the ill-paying, disagreeable work.”

Bà viết: “Bằng cách giữ cho người da đen làm những công việc đày tớ dài lâu, người da trắng có thể dành trước những cơ hội mới và tốt đẹp hơn cho mình và đảm bảo rằng ai đó khác sẽ làm công việc bất như ý với đồng lương thấp kém”.

 

 

Throughout the period from colonial settlement to the Civil War, she says, racial ideologies played only a minor role in sustaining white dominance.

Bà nói rằng suốt thời kỳ từ định cư thuộc địa đến Nội chiến, ý thức hệ chủng tộc chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong việc duy trì sự thống trị của người da trắng.

 

 

The six stories, told in vivid detail, are fascinating and a pleasure to read, particularly the one about Owens, whom Jones sometimes uses as a mouthpiece.

Sáu câu chuyện, được kể bằng những chi tiết rất sinh động, đều hấp dẫn và thích thú với độc giả, đặc biệt là câu chuyện về Owens, người mà bà Jones đôi khi dùng như một phát ngôn viên.

 

 

Jones acknowledges that “whiteness” functioned as a powerful idea during Reconstruction, uniting whites of opposing political views and conflicting class interests.

Jones thừa nhận rằng cái "sự trắng" đóng vai trò một ý tưởng đầy quyền uy trong thời kỳ Tái thiết, kết liên những người da trắng có quan điểm chính trị đối lập và xung đột lợi ích giai cấp.

 

 

Yet the life Jones is most interested in is the life of the concept of “race,” which, following the radical abolitionist David Walker, she terms a “dreadful deceit.”

Song cuộc đời mà Jones quan tâm nhất là cuộc đời của khái niệm “chủng tộc”, cuộc đời mà bà gọi là “sự lừa dối kinh hoàng”, theo cách của David Walker người theo chủ nghĩa bãi nô cấp tiến.

 

 

But racial ideologies were “remade” at the turn of the 20th century, when blacks were imprisoned or killed as sexual and criminal deviants in order to prevent them from joining forces with poor whites against white elites.

Nhưng các ý thức hệ chủng tộc đã được “tái tạo” lúc bước sang thế kỷ 20, khi mà người da đen bị bỏ tù hoặc bị giết như những kẻ tình dục lệch lạc và tội phạm để ngăn không cho họ hợp lực với những người da trắng nghèo chống lại giới da trắng tinh hoa.

 

 

Moving into the present, she attributes contemporary ghetto poverty and its associated ills to a lack of jobs for low-skilled workers.

Sang đến thời nay, bà cho rằng sự nghèo đói của các khu ổ chuột hiện thời và các tệ nạn liên quan đến chúng là do thiếu việc làm cho những người lao động tay nghề thấp.

 

 

Black subordination no longer requires racial myths to perpetuate it.

Sự phục tùng của người da đen không còn đòi hỏi những huyền thoại về chủng tộc để duy trì.

 

 

Vulnerable blacks can be defrauded, imprisoned, disenfranchised and left to die in floodwaters without appeals to race.

Những người da đen không được bảo vệ có thể bị lừa gạt, bị bỏ tù, bị tước quyền công dân và bị bỏ mặc cho chết trong lũ lụt mà chẳng có lời kêu gọi chủng tộc nào.

 

 

A core theme in “A Dreadful Deceit” is the contradictory depictions of blacks.

Chủ đề cốt lõi trong “A Dreadful Deceit” là những miêu tả đối nghịch nhau về người da đen.

 

 

They are at once lazy, childlike, stupid and submissive, but also murderous, calculating and subversive, intent on stealing white men’s jobs.

Họ vừa lười biếng, trẻ con, khờ khạo và phục tùng, song đồng thời cũng có tính hung đồ, tính toán và lật đổ, chủ ý cướp công việc của người da trắng.

 

 

Jones regards this lack of coherence as evidence that a conception of inherent racial difference has not been a driving factor in the way whites have treated blacks.

Jones coi sự thiếu nhất quán này là bằng chứng cho thấy khái niệm về sự khác biệt chủng tộc cố hữu không phải là yếu tố thúc đẩy cách người da trắng đối xử với người da đen.

 

 

And she laments the preoccupation with battling these myths, which she believes too often obscure the pressing need to address material inequality.

Và bà than thở về mối bận tâm tranh đấu với những huyền thoại này, điều mà bà tin rằng quá thường xuyên che khuất nhu cầu bức thiết giải quyết sự bất bình đẳng hữu hình.

 

 

Yet isn’t it obvious that whites sometimes hate blacks simply because they are black?

Dẫu vậy, chẳng phải hiển nhiên là người da trắng đôi khi ghét người da đen chỉ vì họ là người da đen sao?

 

 

No, Jones says.

Không phải thế, Jones bảo.

 

 

When whites express contempt or hatred for blacks it is because of the stigma attached to servitude, or because blacks have refused to submit quietly to economic marginalization.

Khi người da trắng biểu lộ sự khinh thường hoặc căm ghét người da đen thì đó là vì sự kỳ thị gắn liền với tình trạng nô lệ, hoặc vì người da đen đã từ chối phục tùng một cách lặng lẽ đối với tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội về mặt kinh tế.

 

 

Jones celebrates interracial working-class solidarity (though she recognizes that white workers have generally resisted uniting with black workers).

Jones tán dương tình đoàn kết của giai cấp công nhân giữa các chủng tộc (mặc dù bà nhận ra rằng công nhân da trắng thường chống lại việc đoàn kết với công nhân da đen).

 

 

At the same time, she is ambivalent about whether “blackness” itself can ever be a basis for identity or solidarity.

Đồng thời, bà cũng lưỡng lự về việc liệu “sự đen” tự nó có thể là cơ sở cho nhân dạng hoặc sự đoàn kết hay không.

 

 

She says of Owens, “Because generations of white people had defined him and all other blacks first and foremost as ‘Negroes,’ he had no alternative but to acknowledge — or rather, react to — that spurious identity.”

Bà nói về Owens: “Bởi vì nhiều thế hệ người da trắng đã xác định anh ấy và tất cả những người da đen khác trước nhất và trên hết là ‘Người da đen’, anh ấy chẳng còn cách nào khác ngoài việc thừa nhận – hay đúng hơn là phản ứng lại – cái nhân dạng giả mạo đó.”

 

 

While Jones contends that racial justifications for unequal treatment are tactical and self-serving lies, Du Bois emphasized that those who accept racist thinking are generally self-deceived, entranced by mystifying fictions.

Trong khi Jones đoan chắc rằng những biện minh về chủng tộc cho sự đối xử bất bình đẳng là những lời nói dối mang tính chiến thuật và vị kỷ, thì Du Bois lại nhấn mạnh rằng những người chấp nhận tư duy phân biệt chủng tộc thường là người tự lừa dối bản thân, bị mê hoặc bởi những hư cấu thần bí.

 

 

And although he is no less concerned about black economic disadvantage than Jones, Du Bois worried as well about the self-contempt that racial defamation causes.

Và mặc dù cũng lo lắng về bất lợi kinh tế của người da đen chẳng kém gì Jones, Du Bois còn lo lắng về sự tự coi thường bản thân do sự phỉ báng chủng tộc gây ra.

 

 

Material well-being without self-respect, he insisted, is an undignified existence.

Ông khẳng định rằng sung túc về vật chất mà không có lòng tự trọng là sự tồn tại vô giá trị.

 

 

Precisely because race is, as Jones says, a “strange and shifting idea,” both malleable and capacious, Du Bois believed it could be remade and used for good.

Chính vì chủng tộc, như Jones nhận định, là một “ý tưởng kỳ lạ và luôn di dịch,” vừa dễ điều chỉnh vừa hàm nghĩa rộng, Du Bois tin rằng nó có thể được tái tạo và sử dụng vì mục đích tốt.

 

 

Over the years, those who have had the label “black” imposed on them have revised its meaning to better reflect their experiences and collective memory, and employed it as a means of overcoming their oppression.

Suốt nhiều năm ròng, những người bị gắn nhãn “da đen” đã làm ý nghĩa của nó thay đổi để phản ánh tốt hơn trải nghiệm và kí ức tập thể của họ, và sử dụng nó như một phương tiện để vượt qua tình trạng bị áp bức của họ.

 

 

Thus, “black is beautiful,” “black pride,” even “black power.”

Do đó, “da đen là đẹp”, “niềm tự hào da đen”, thậm chí cả “quyền lực da đen”.

 

 

When Du Bois called on the “darker races” to stand together against imperialism, economic exploitation and white supremacy, he was invoking race, but not in a morally troubling way.

Khi Du Bois kêu gọi "các chủng tộc ngăm ngăm hơn" sát cánh cùng nhau chống lại chủ nghĩa đế quốc, sự bóc lột kinh tế và uy quyền tối cao của người da trắng, ông đang gọi lên tính chủng tộc, nhưng không phải theo cái cách gây rối về mặt đạo đức.

 

 

Engagement with Du Boisian ideas might have made “A Dreadful Deceit” more convincing (and its practical implications less ambiguous).

Sự giao thoa với những ý tưởng của Du Boisian có thể khiến “A Dreadful Deceit” trở nên thuyết phục hơn (và hàm ý thực tế của nó ít mơ hồ hơn).

 

 

Still, if contemporary discussions of race could be focused on the interconnections between racial ideologies, political power and economic vulnerability, as Jones would like, that would be a dramatic improvement over the “postracial” narratives that currently reign.

Dẫu vậy, nếu các cuộc thảo luận đương đại về chủng tộc có thể tập trung vào mối quan hệ giữa các ý thức hệ chủng tộc, quyền lực chính trị và tình trạng không được bảo vệ về kinh tế, như Jones mong muốn, thì đó sẽ là một sự tiến bộ đầy ấn tượng so với những câu chuyện kể “hậu chủng tộc” hiện đang thịnh hành.

 

 

Even if what blacks have in common is not their race but “an overarching political vulnerability traced back to enslaved forebears, a political and historical status,” there might be times, she admits, when it would be legitimate to describe this commonality using the language of race.

Cho dù chủng tộc không phải điểm chung người da đen nào cũng có, mà chính là "tình trạng phổ quát không được bảo vệ về mặt chính trị có nguồn gốc từ những tổ tiên bị nô lệ hóa, một thân phận chính trị và lịch sử", song bà thừa nhận rằng có thể có những thời điểm sẽ là chính đáng khi miêu tả điểm chung này bằng ngôn ngữ chủng tộc.

 

 

However, she also believes that doing so keeps a “destructive” idea alive.

Tuy nhiên, bà cũng cho rằng làm như vậy là giữ cho một ý tưởng “phá hoại” tồn tại.

 

 

Jones’s argument shares features with W. E. B. Du Bois’s theory in his 1940 book, “Dusk of Dawn: An Essay Toward an Autobiography of a Race Concept.”

Lập luận của bà Jones cùng chung những đặc điểm với lý thuyết của W. E. B. Du Bois trong cuốn sách năm 1940 của ông, “Dusk of Dawn: An Essay Toward an Autobiography of a Race Concept” (“Chạng vạng của Bình minh: Tiểu luận về một Tự truyện về Khái niệm Chủng tộc”).

 

 

But the differences make a difference.

Nhưng những khác biệt tạo ra ảnh hưởng.

 

 

Du Bois too welcomed multiracial working-class solidarity, yet he thought that many oppressed whites were strongly attached to their “whiteness” as a marker of status, despite the fact that it brought them few or no material advantages.

Du Bois cũng hoan nghênh sự đoàn kết của tầng lớp lao động đa chủng tộc, tuy nhiên ông cho rằng nhiều người da trắng bị áp bức rất gắn bó với “sự trắng” của họ như một dấu hiệu của địa vị, bất chấp cái thực tế là nó mang lại cho họ rất ít hoặc không mang lại một lợi thế vật chất nào.


A DREADFUL DECEIT
The Myth of Race From the Colonial Era to Obama’s America
By Jacqueline Jones
Illustrated. 381 pp. Basic Books. $29.99.

Bài trước: Sâu dưới lòng Trung tâm Rockefeller là một Vườn bách thảo huyền thoại
Chia sẻ: