Đặc nhiệm bất hảo của Hải quân Mỹ

12 1 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Đặc nhiệm bất hảo của Hải quân Mỹ

nguồn: New York Times,

biên dịch: Minh Thu,

The Navy SEAL Who Went Rogue

 

Đặc nhiệm bất hảo của Hải quân Mỹ

 

 


 

This is a book about a man, two events and an institution.

 

Câu chuyện về một người đàn ông, hai sự kiện và một tổ chức.

 

 

 

The man is Eddie Gallagher, the Navy special operator accused of murdering an Iraqi prisoner of war in Mosul in 2017; the events are the killing itself and the subsequent military trial at which he was acquitted, while attracting the enthusiastic support of President Donald Trump; the institution is the Navy SEALs, the elite special operators of the United States Navy.

 

Người đàn ông ấy là Eddie Gallagher -- chỉ huy đặc nhiệm hải quân bị buộc tội giết một tù nhân người Iraq ở Mosul năm 2017 và phiên tòa quân sự sau đó đã tuyên anh ta trắng án (và được Tổng thống Donald Trump ủng hộ nhiệt tình). Tổ chức ở đây là Navy SEALs, lực lượng đặc nhiệm của Hải quân Mỹ.

 

 

 

Gallagher is, curiously, not that interesting save as a study in the definition of sociopathy.

 

Kỳ lạ thay, Gallagher không thú vị đến vậy, trừ khi ta cần làm một nghiên cứu về bệnh xã hội.

 

 

 

In Philipps’s meticulously assembled and brilliantly written account, he is not a warrior driven mad by the stress of combat, a good guy gone rogue or a victim of a brutalizing culture.

 

Trong câu chuyện được viết một cách tỉ mỉ và xuất sắc của Philipps, anh ta không phải là một chiến binh phát điên vì căng thẳng trong chiến đấu, hay một chàng trai tốt bị biến thành kẻ bất hảo, hay một nạn nhân của một nền văn hóa bạo lực.

 

 

 

Rather, he is a lousy shot (by SEAL standards, that is), a poor planner, a glory hound, a petty thief, a popper of tramadol and other opioids when he can get them and a cunningly effective manipulator of those around him.

 

Thay vào đó, anh ta là một tay bắn tệ hại (theo tiêu chuẩn của SEAL), một kẻ lập kế hoạch tồi, một gã hám hư danh, một tên trộm vặt, một kẻ nghiện thuốc giảm đau và các loại thuốc khác bất kỳ khi nào anh ta có thể lấy chúng,một kẻ thao túng xảo quyệt.

 

 

 

Philipps leaves little reason to doubt his conclusion that Gallagher really did plunge that special knife of his twice into the ISIS prisoner’s neck.

 

Philipps không cho người đọc lý do nào để hoài nghi kết luận rằng Gallagher thực sự đã đâm hai lần vào cổ của người tù nhân ISIS bằng con dao đặc dụng của mình.

 

 

 

But he also reveals that the killing was only the culmination of years of indiscipline, recklessness, tactical incompetence and bragging about, among other things, shooting a girl in order to get a terrorist.

 

Nhưng tác giả cũng tiết lộ rằng vụ giết người chỉ là đỉnh điểm của nhiều năm vô kỷ luật, liều lĩnh, chiến thuật kém cỏi và khoe khoang, cùng với nhiều điều khác, chẳng hạn như bắn một cô gái để bắt một tên khủng bố.

 

 

 

There are other distinctly drawn characters too, including two who deserve calling out by name:

 

Có những nhân vật khác cũng được khắc họa rõ ràng, bao gồm hai người đáng được nêu đích danh:

 

 

 

Lt. Jacob Portier and Lt. Cmdr. Robert Breisch, superiors who were too intimidated or seduced by Gallagher, or too in awe of the reputation he had cultivated to take seriously accusations raised by his subordinates in Platoon Alpha of SEAL Team 7.

 

Đại úy Jacob Portier và Thiếu tá  Robert Breisch, hai cấp trên hoặc vì bị Gallagher đe dọa hoặc dụ dỗ, hoặc quá kinh hãi với tiếng tăm của Gallagher bấy lâu nay, mà không nghiêm túc xem xét những lời buộc tội của cấp dưới trong Trung đội Alpha của SEAL Đội 7.

 

 

 

In some ways, they are the more disturbing figures here, officers who shirked their duty to maintain good order and discipline.

 

Ở một khía cạnh nào đó, họ mới là những nhân vật đáng lo ngại hơn, những sĩ quan trốn tránh trách nhiệm duy trì trật tự và kỷ luật.

 

 

 

The killing itself is recounted in the context of the bloody, destructive reconquest of Mosul from the Islamic State organization that had seized it from a crumbling Iraqi Army.

 

Vụ giết người được kể lại trong bối cảnh cuộc truy quét tàn khốc, đẫm máu vào Mosul khi tổ chức Nhà nước Hồi giáo đã chiếm được thành phố này từ tay quân đội Iraq đang rệu rã.

 

 

 

The Iraqis were to take the city back supported by Special Forces units from the United States and allied countries.

 

Người Iraq sau đó đã lấy lại được thành phố với sự hỗ trợ của các đơn vị lực lượng đặc biệt của Mỹ và các nước đồng minh.

 

 

 

In theory, the special operators were to stay a kilometer back from the front lines.

 

Về lý thuyết, các chỉ huy đặc nhiệm phải ở lại nơi cách tiền tuyến một km.

 

 

 

In practice, Gallagher ordered his men to turn off the tracking devices that would have allowed his superiors to see that he was taking them to the front and beyond.

 

Trên thực tế, Gallagher đã ra lệnh cho người trong đội mình tắt các thiết bị theo dõi và khiến cấp trên của anh ta không thấy rằng anh ta đang đưa đội mình đến chiến tuyến và vào sâu hơn nữa.

 

 

 

The fighting was brutal but, in the case of Alpha at least, not about close combat.

 

Cuộc chiến rất tàn khốc nhưng, ít nhất trong trường hợp của đội Alpha, đây không phải cận chiến.

 

 

 

Instead, it was a matter of bombing, booby traps, sniping and grenade barrages as well as drone attacks (from both sides — ISIS had successfully weaponized their own hobbyist quadcopters).

 

Đó là các cuộc ném bom, bẫy bom, bắn tỉa và lựu đạn cũng như các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái (từ cả hai phía ISIS đã thành công trong việc biến những chiếc drone bốn động cơ đồ chơi của chúng thành một loại vũ khí).

 

 

 

The culminating event was the knifing of the prisoner in the presence of Iraqi troops (who did not much care) and Gallagher’s own hardened but horrified subordinates, who had long before concluded that he was dangerous, incompetent and out of control.

 

Sự kiện lên đến đỉnh điểm khi người tù nhân kia bị cắt cổ trước sự chứng kiến của quân đội Iraq (họ cũng chẳng quan tâm lắm) và những cấp dưới đang kinh hoàng nhưng phải gồng mình cứng rắn của Gallagher, những người mà trước đó đã kết luận rằng anh ta là kẻ nguy hiểm, bất tài và mất kiểm soát từ lâu.

 

 

 

The trial, which took place in 2019, is more of a set piece: the dogged N.C.I.S. agent who assembles the evidence, the sinister consigliere whom Gallagher uses to get witnesses to pull back their story, the obnoxious but brilliant defense lawyer, the stumbling prosecutors, the jury, exclusively male, primarily enlisted, including one SEAL who Philipps asserts lied about having no prior relationship with Gallagher.

 

Phiên tòa diễn ra vào năm 2019 còn giống một cảnh phim hơn: đặc vụ N.C.I.S. có nhiệm vụ thu thập bằng chứng bị bí mật theo dõi, Gallagher thuê một tay mafia tàn độc để ép nhân chứng rút lời khai, luật sư bào chữa đáng ghét và giảo hoạt, các công tố viên đầy vụng về và kém cỏi, toàn bộ bồi thẩm đoàn là nam giới và phần lớn trong số đó từng là quân nhân, trong đó có một lính đặc nhiệm hải quân mà Philipps khẳng định đã nói dối về việc không có mối quan hệ từ trước với Gallagher.

 

 

 

The trial is followed by a further set piece, in which Donald Trump leans on the Navy high command to inflict no penalties whatsoever on Gallagher, including reduction in rank and the removal of the prized SEAL Trident pin.

 

Sau đó, phiên tòa được tiếp tục với cảnh Donald Trump dựa vào quyền chỉ huy cấp cao đối với lực lượng Hải quân để không đưa ra bất kỳ hình phạt nào đối với Gallagher, kể cả việc giảm cấp bậc và tước cấp hiệu.

 

 

 

Fox News personalities brayed in his defense, and the secretary of the Navy who tried to steer a middle course was eventually dismissed; he was caught between the demands of the service and the rage of a president who knew that his people loved the Gallagher type, and who rather liked murderous thugs who supported him.

 

Các nhân vật của Fox News oang oang lên tiếng bảo vệ, và bộ trưởng Hải quân, người cố gắng hướng đến một giải pháp nước đôi cuối cùng đã bị cách chức; vị này bị kẹt giữa những yêu cầu của chức trách với cơn thịnh nộ của tổng thống, một vị tổng thống biết rằng dân chúng thích kiểu như Gallagher, và cũng thích những tên côn đồ như vậy ủng hộ mình.

 

 

 

But the most interesting part of this remarkable and engrossing book examines the SEALs as an institution and as a subculture within the military.

 

Nhưng phần thú vị nhất của cuốn sách đáng chú ý và hấp dẫn này là phần đi sâu miêu tả SEAL như một tổ chức và một nền văn hóa  riêng trong quân đội.

 

 

 

The Special Operations community in the United States military consists of many subgroups — Delta, the Army’s elite, which is not the same thing as Special Forces (the Green Berets), as well as Air Force and Marine special units.

 

Các đơn vị hoạt động đặc biệt trong quân đội Mỹ bao gồm nhiều phân nhóm - Delta, lực lượng tinh nhuệ của Lục quân, không giống với Lực lượng Đặc nhiệm Mũ nồi xanh, cũng như các đơn vị đặc biệt của Không quân và Thủy quân lục chiến.

 

 

 

The SEALs are different in several respects.

 

SEAL cũng khác ở một số khía cạnh.

 

 

 

They grew out of the underwater demolition teams of World War II, a roughneck outfit at odds with Navy culture from the outset.

 

SEAL được phát triển từ các đội phá bom dưới nước thời Thế chiến II, với một bộ trang phục thô ráp trái ngược với văn hóa Hải quân ngay từ đầu.

 

 

 

They operate chiefly on land (although they swim in and out if there is an opportunity to do so), and they have long had a reputation for pushing the limits of legality and indeed military ethics.

 

Họ hoạt động chủ yếu trên đất liền (mặc dù có thể dễ dàng xuống biển và lên cạn khi cần), và từ lâu đã nổi tiếng trong việc thách thức các giới hạn của pháp luật thậm chí của cả đạo đức quân đội.

 

 

 

One of the more famous SEALs, Richard Marcinko, founded SEAL Team 6, an elite within an elite.

 

Một trong những thành viên SEAL nổi tiếng hơn cả, Richard Marcinko, đã thành lập SEAL Đội 6, tinh nhuệ của tinh nhuệ.

 

 

 

He titled his memoir “Rogue Warrior,” and that’s what he was, which may explain why he was eventually convicted and jailed for conspiracy to defraud the government.

 

Marcinko đã đặt tiêu đề cho cuốn hồi ký của mình là “Chiến binh bất hảo [Rogue Warrior], và điều này có thể giải thích sao cuối cùng anh ta lại bị kết án và bỏ tù vì bị buộc tội âm mưu lừa gạt chính phủ.

 

 

 

But he merely embodied a culture that Philipps describes as piratical, and that went back at least to Vietnam, when the SEALs — far from anything like a regular chain of command — fought their own war as they wished, with little oversight and less concern for the rules.

 

Nhưng Marcinko chỉ đơn thuần thể hiện một nền văn hóa mà Philipps miêu tả là chẳng khác gì lũ cướp biển, và thứ văn hóa đó xuất hiện muộn nhất là ngay từ trong cuộc chiến tại Việt Nam, khi lính SEAL – khác xa với cấp bậc và quy tắc quân sự thông thường – đã tự mình đánh đấm tùy ý mà không chịu mấy giám sát và cũng chẳng có mấy bận tâm về những quy định.

 

 

 

That included, at times, the rules that say you don’t kill prisoners and you don’t intentionally kill civilians.

 

Mà đôi khi những quy định ấy bao gồm các quy tắc nói rằng bạn không được giết tù nhân và bạn không được cố ý giết thường dân.

 

 

 

Special Operations units must consist (and do) of individuals who push perseverance, courage and combat skills to the limit.

 

Các đơn vị Hoạt động Đặc biệt phải bao gồm (và khiến) những cá nhân thúc đẩy sự kiên trì, lòng dũng cảm và kỹ năng chiến đấu đến giới hạn cao nhất.

 

 

 

They attract either some of the most eminently sane and honorable people one will ever meet, or the other kind — and Eddie Gallagher was most definitely of the other kind, though he was not alone.

 

Họ thu hút những kiểu người tỉnh táo và đáng kính nhất mà ta có thể gặp được, hoặc là kiểu ngược lại - và Eddie Gallagher chắc chắn thuộc kiểu kia, mặc dù anh ta không đơn độc.

 

 

 

Yet both types remain human, and the misjudgments, betrayals and misconduct that Philipps documents bring that home.

 

Tuy nhiên, cả hai kiểu vẫn là con người, và những đánh giá sai lầm, sự phản bội và hành vi sai trái được làm rõ qua các liệu của Philipps.

 

 

 

James Thurber’s Walter Mitty fantasized about heroic adventures:

 

Nhân vật Walter Mitty của nhà văn James Thurber đã tưởng tượng về những cuộc phiêu lưu anh hùng rằng:

 

 

 

The kinds of people who join the SEALs get to live them, and while most remain thoroughly grounded in reality some end up in the grip of fantasies, including dark and hideous dreams that they turn into reality.

 

Những kiểu người gia nhập SEAL phải sống với nó, và trong khi phần lớn vẫn bám chắc vào thực tế, một số khác cuối cùng lại rơi vào vòng tay của những huyễn tưởng, kể cả những giấc mơ đen tối và ghê tởm mà họ góp phần biến thành hiện thực.

 

 

 

And Special Operations units have this characteristic too:

 

Và các đơn vị Hoạt động Đặc biệt cũng có đặc điểm này:

 

 

 

They are small, insular and often loosely supervised by the far more disciplined and rules-based hierarchies that characterize the armed forces — which is why conventional officers are often appropriately wary of them.

 

Họ là những nhóm nhỏ, tách biệt và hệ thống phân cấp dựa trên quy tắc và kỷ luật, thứ là đặc trưng của các lực lượng vũ trang, chỉ giám sát họ một cách lỏng lẻo. Đó là lý do sao các sĩ quan thông thường lại hay đề phòng họ.

 

 

 

The result in the SEALs in particular was an institutional culture of omertà.

 

Kết quả trong SEAL nói riêng đã hình thành một nền văn hóa im lặng (omertà).

 

 

 

The most dispiriting thing about this book is the way it shows just how deep that code of loyalty and silence, even about crimes, can run.

 

Điều đáng buồn nhất mà cuốn sách này chỉ ra việc thứ luật im lặng đó, và quy tắc trung thành đó, dù trong vấn đề tội ác, có thể cắm sâu đến mức nào.

 

 

 

In this reality of an opaque institution’s insularity shaped by a unique and difficult mission, the special operators are not so special.

 

Trong thực tế rằng những nhiệm vụ khó khăn và đặc biệt đã định hình sự cô lập và mập mờ của tổ chức, chỉ huy đặc nhiệm cũng không phải là quá đặc biệt.

 

 

 

Think of pedophile priests protected by the Roman Catholic Church.

 

Hãy nghĩ đến những linh mục phạm tội ấu dâm được Giáo hội Công giáo La Mã bảo vệ.

 

 

 

And yet even though he believes that Gallagher and his immediate superiors escaped justice, Philipps comes to a surprisingly upbeat conclusion.

 

Tuy nhiên, ngay cả khi tin rằng công lý không làm gì được Gallagher và cấp trên trực tiếp của anh ta, Philipps vẫn đưa ra một kết luận lạc quan đáng ngạc nhiên.

 

 

 

The Navy senior brass are shown as trying to do the right thing while being caught between their duty and the demands of a commander in chief oblivious to military values.

 

Tác giả cuốn sách cho rằng dàn sĩ quan cấp cao của Hải quân đã cố gắng làm điều đúng đắn trong khi bị kẹt giữa nhiệm vụ của họ với yêu cầu của một tổng tư lệnh mà không quan tâm đến các giá trị quân sự.

 

 

 

One senior officer, Capt. Matt Rosenbloom, is downright heroic.

 

Một sĩ quan cấp cao, Đại úy Matt Rosenbloom, rõ ràng là một anh hùng.

 

 

 

Gallagher and his negligent superior Portier left the Navy shortly after the trial.

 

Gallagher và cấp trên cẩu thả của anh ta là Portier đã phải rời lực lượng Hải quân ngay sau phiên tòa.

 

 

 

While some members of Alpha did as well, others, including some of those most vocal about the rogue chief, remained.

 

Trong khi một số thành viên của Alpha,những người khác, bao gồm cả một số người lên tiếng mạnh mẽ nhất về tên chỉ huy điên khùng, vẫn ở lại.

 

 

 

 

 

 

The eminently sane SEAL leaders — typified by Adm. William McRaven, architect of the raid that killed Osama bin Laden — are still in control.

 

Các thủ lĩnh SEAL lỗi lạc - điển hình là Đô đốc William McRaven, kiến trúc sư của cuộc đột kích tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden - vẫn còn khả năng kiểm soát tốt.

 

 

 

The pirates, in other words, lost, despite the cheering of the Fox News anchors and Mar-a-Lago acolytes who, one may safely assume, have never seen a knife sink into human flesh.

 

Nói cách khác, những tên cướp biển đã thua, bất chấp sự cổ vũ của các phóng viên đài Fox News và người ủng hộ ở Mar-a-Lago, kẻ mà ta có thể an toàn nói rằng gã chưa bao giờ tận mắt thấy một con dao đâm vào thịt người.

 

 

 

If this is the military side of the deep state at work, long may it live.

 

Nếu đây là tác dụng phụ của trạng thái chuyên tâm trong công việc quân sự thì nó sẽ còn tồn tại lâu dài.


ALPHA
Eddie Gallagher and the War for the Soul of the Navy SEALs
By David Philipps
480 pp. Crown. $28.99.

Bài trước: Đêm Matxcơva
Chia sẻ: