Henry Kissinger và vấn đề nan giải về Trung Đông

7 1 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Henry Kissinger và vấn đề nan giải về Trung Đông

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Henry Kissinger and the Puzzle of the Middle East

 

Henry Kissinger và vấn đề nan giải về Trung Đông

 

 


 

Diplomats are often the heroes of history.

 

Các nhà ngoại giao thường là những anh hùng trong lịch sử.

 

 

 

They walk along the edges of battlefields and persuade the belligerents to lay down their arms, turning swords into plowshares.

 

Họ bước dọc bên rìa chiến trường và thuyết phục các bên tham chiến hạ vũ khí, biến những thanh kiếm thành những lưỡi cày.

 

 

 

At the dawn of the 19th century, Prince Metternich of Austria famously negotiated a century of peace among the European kingdoms that had fought one another nonstop for a hundred years.

 

Vào buổi bình minh của thế kỷ 19, ông hoàng Metternich của nước Áo đã đàm phán xuất sắc được một thế kỷ hòa bình giữa các vương quốc châu Âu đã không ngừng tranh chiến với nhau 100 năm ròng.

 

 

 

He was the model diplomat of his age, and the inspiration for many followers, including the American national security adviser and secretary of state Henry Kissinger.

 

Ông là nhà ngoại giao mẫu mực ở thời của ông và là nguồn cảm hứng cho nhiều người theo gót, trong đó có vị cố vấn an ninh quốc gia kiêm ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger.

 

 

 

Martin Indyk’s book places Kissinger in a class with Metternich and other “masters of the game.”

 

Cuốn sách của Martin Indyk xếp Kissinger vào cùng đẳng cấp với Metternich và các “những người làm chủ cuộc chơi” khác.

 

 

 

He is not the first to do this.

 

Ông không phải là người đầu tiên làm việc này.

 

 

 

Kissinger has made the case for himself in an outpouring of thick, ponderous books, most especially his more than 3,000 pages of memoirs, published in three volumes.

 

Kissinger đã tự biện cho mình bằng cách tuôn ra một loạt những cuốn sách dày cộp, nặng trịch, đặc biệt là cuốn hồi ký hơn 3.000 trang của ông, được ấn hành làm ba tập.

 

 

 

Among modern statesmen, only Winston Churchill wrote more to promote himself.

 

Trong số các chính khách cận đại, chỉ có Winston Churchill là viết nhiều hơn thế để quảng bá chính mình.

 

 

 

The strongest case for Kissinger’s heroism is found in his Middle East diplomacy, chronicled in fascinating day-by-day detail by Indyk in “Master of the Game.”

 

Ta có thể thấy rõ lý lẽ biện minh vững chắc nhất cho tính anh hùng của Kissinger trong chính sách ngoại giao Trung Đông của ông, được Indyk ghi lại tỉ mỉ từng ngày một cách hấp dẫn trong cuốn “Master of the Game” (“Người làm chủ cuộc chơi”).

 

 

 

Serving as President Richard Nixon’s foreign policy surrogate, Kissinger turned a series of disasters into opportunities for remaking the region.

 

Với tư cách là người đại diện cho chính sách đối ngoại của Tổng thống Richard Nixon, Kissinger đã biến một loạt thảm họa thành cơ hội để tái thiết khu vực.

 

 

 

After a coalition of Arab states attacked and nearly destroyed Israel during the Yom Kippur observance of 1973, Kissinger managed the emergency resupply of Israeli military forces by the United States.

 

Sau khi liên quân các nước Ả Rập tấn công và gần như tiêu diệt Israel trong ngày lễ chuộc tội Yom Kippur năm 1973, Kissinger đã xoay xở để Mỹ tái tiếp tế khẩn cấp cho các lực lượng quân sự của Israel.

 

 

 

When the Israeli Army turned the tide and entered Egyptian and Syrian territory, Kissinger dived into the maelstrom to negotiate an end to the conflict.

 

Khi Quân đội Israel lật ngược tình thế và tiến vào lãnh thổ Ai Cập và Syria, Kissinger đã lao vào nơi hỗn loạn đó để đàm phán chấm dứt xung đột.

 

 

 

He spent the better part of three years in marathon meetings with Israeli, Egyptian and Syrian leaders that often turned into heated arguments and extended haggling sessions.

 

Ông ta đã dành phần lớn thời gian trong ba năm ròng tham gia các cuộc hội họp trường kỳ với các nhà lãnh đạo Israel, Ai Cập và Syria, những cuộc hội họp đó thường biến thành các cuộc tranh cãi nảy lửa và các phiên họp thương thảo mở rộng.

 

 

 

Kissinger gained command over minute details about borders and settlements, as he simultaneously threatened his counterparts and earned their trust.

 

Kissinger giành được quyền kiểm soát từng chi tiết về biên giới và các khu định cư, vì ông ta đã đồng thời vừa đe dọa những người đồng cấp với mình vừa chiếm được lòng tin của họ.

 

 

 

He did all of this while shuttling between their capitals and managing a range of additional foreign policy crises in Vietnam, Chile, southern Africa and other Cold War hot spots.

 

Ông ta đã làm tất cả những việc này trong khi đi lại như con thoi giữa các thủ đô và cùng lúc xử lý một loạt các cuộc khủng hoảng chính sách đối ngoại thêm vào ở Việt Nam, Chile, miền nam châu Phi và các điểm nóng khác trong Chiến tranh Lạnh.

 

 

 

He reported to a volatile, self-destructive president who was spiraling into depression during the Watergate investigations.

 

Ông ta chịu trách nhiệm trước một vị tổng thống hay thay đổi, có tính tự hại bản thân, người đang ngày càng suy sụp trong quá trình điều tra vụ Watergate.

 

 

 

Nixon’s successor, Gerald Ford, had little knowledge of or experience in the region.

 

Gerald Ford, người kế nhiệm Nixon, có rất ít kiến thức hoặc kinh nghiệm về khu vực này.

 

 

 

Kissinger often made policy and explained it to the president later.

 

Kissinger thường đưa ra chính sách và sau đó giải thích nó cho tổng thống.

 

 

 

Despite all of the challenges, Kissinger constructed a new political order in the Middle East.

 

Bất chấp mọi thách thức, Kissinger đã xây dựng một trật tự chính trị mới ở Trung Đông.

 

 

 

The pillars for his edifice were the main belligerents in the 1973 war — Israel, Egypt and Syria — whom Kissinger cajoled into a set of agreements that disengaged their combat-hardened armies and established stable borders.

 

Các trụ cột cho cấu trúc đó của ông ta là những bên tham chiến chính trong cuộc chiến năm 1973 – Israel, Ai Cập và Syria – những bên mà Kissinger đã phỉnh phờ vào một loạt các thỏa thuận để rút các đội quân thiện chiến của họ về và thiết lập những biên giới ổn định.

 

 

 

Kissinger did not negotiate a comprehensive peace agreement, but instead a set of understandings that allowed the leaders of each state to feel secure from future attacks.

 

Kissinger đã không đàm phán một hiệp định hòa bình toàn diện, mà thay vào đó là một loạt các thỏa thuận sơ bộ cho phép các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia cảm thấy an toàn trước các cuộc tấn công trong tương lai.

 

 

 

Kissinger’s mediation removed the Soviet Union as a major influence from the region, and he made the United States a profligate source of military and economic aid to both Israel and Egypt, who continue to draw on American largess today.

 

Nỗ lực trung gian hòa giải của Kissinger đã loại bỏ Liên Xô với vai trò một nước có ảnh hưởng to lớn ra khỏi khu vực, và ông ta biến Mỹ trở thành nguồn viện trợ kinh tế và quân sự vung vít cho cả Israel và Ai Cập, những nước cho đến giờ vẫn tiếp tục moi móc cái hầu bao hào phóng của Mỹ.

 

 

 

Chronicling many of the twists and turns in Kissinger’s breathtaking diplomacy, Martin Indyk is in awe of the man.

 

Trong khi ghi chép nhiều chỗ ngoắt ngoéo trong chính sách ngoại giao ngoạn mục của Kissinger, Martin Indyk rất kính sợ người đàn ông này.

 

 

 

He comments frequently on Kissinger’s unending reservoirs of energy, his stubborn perseverance, his uncanny ability to charm powerful people.

 

Ông thường xuyên nhận xét về nguồn năng lượng bất tận của Kissinger, sự kiên trì ngoan cường của ông ta, khả năng phi thường của ông ta trong việc dụ hoặc những người quyền lực.

 

 

 

The American secretary of state combined intelligence with savvy, as few had before or have since.

 

Vị ngoại trưởng Mỹ đã kết hợp trí thông minh với lương tri, điều mà xưa nay hiếm.

 

 

 

When Indyk analyzes the obstacles that Kissinger overcame, he knows of what he speaks.

 

Khi Indyk phân tích những trở ngại mà Kissinger đã vượt qua, ông biết rõ về những gì mình nói.

 

 

 

Decades after Kissinger left the State Department, the author dealt with similar issues as U.S. ambassador to Israel and special presidential envoy.

 

Hàng thập kỷ sau khi Kissinger rời Bộ Ngoại giao, tác giả đã đối phó với các vấn đề tương tự khi ông là đại sứ Mỹ tại Israel và đặc phái viên của tổng thống.

 

 

 

His book draws on his experiences as well as extensive research in American and Israeli archives.

 

Cuốn sách của ông được đúc kết từ những kinh nghiệm cũng như những nghiên cứu sâu rộng trong các hồ sơ lưu trữ của Mỹ và Israel.

 

 

 

Most of all, Indyk captures the unique intensity of diplomacy in this region, where every gesture is treated with suspicion, and every concession is a matter of life or death.

 

Trên hết là, Indyk nắm bắt được sức mạnh ngoại giao dị thường ở khu vực này, nơi nhất cử nhất động đều bị nghi ngờ, và mỗi nhượng bộ đều là vấn đề sinh tử.

 

 

 

Kissinger turned this unforgiving hothouse into a platform for his acquisition of power and fame.

 

Kissinger đã biến nơi chảo lửa đầy hiềm khích này thành một diễn đàn cho việc thâu tóm quyền lực và danh tiếng của mình.

 

 

 

Indyk is clear that Kissinger had three goals: end the wars, remove the Soviets and protect Israel.

 

Indyk đã rõ rằng Kissinger có ba mục tiêu: chấm dứt chiến tranh, loại bỏ Liên Xô và bảo vệ Israel.

 

 

 

He achieved the first two, but the third remains problematic.

 

Ông ta đã đạt được hai mục tiêu đầu, nhưng mục tiêu thứ ba vẫn là thách thức.

 

 

 

The author shows that although Kissinger often disagreed with Israeli leaders, he shared their desire to shield the Jewish state from hostile neighbors.

 

Tác giả cho thấy cho dù Kissinger thường xuyên bất đồng ý kiến với các nhà lãnh đạo Israel, nhưng ông ta vẫn chia sẻ mong muốn của họ là che chở nhà nước Do Thái khỏi các nước láng giềng thù địch.

 

 

 

In contrast, he did not have a similar attachment to Arab and Muslim societies.

 

Trái lại, ông ta không có sự gắn bó tương tự với các xã hội Ả Rập và Hồi giáo.

 

 

 

Kissinger’s Jewish background and his family’s suffering during the Holocaust mattered enormously, and he frequently referred to these topics.

 

Xuất thân Do Thái của Kissinger và những đau khổ mà gia đình ông ta phải chịu trong thời kỳ ở Holocaust có ý nghĩa vô cùng quan trọng, và ông ta thường xuyên đề cập đến những chủ đề này.

 

 

 

When Israel made limited territorial concessions to Egypt and Syria, he compensated the Jewish state with American weapons and technology that gave it predominance over the Arabs.

 

Khi Israel nhượng bộ lãnh thổ có giới hạn cho Ai Cập và Syria, ông ta đã đền bù cho nhà nước Do Thái bằng vũ khí và công nghệ của Mỹ, những thứ đã cho quốc gia này ưu thế vượt trội so với Ả Rập.

 

 

 

That was not a mistake; it was part of his strategy.

 

Đó chẳng phải là một sai lầm; đó là một phần trong chiến lược của ông ta.

 

 

 

Kissinger also tried to silence Palestinian claims against Israel.

 

Kissinger cũng đã cố gắng bịt miệng những yêu sách của Palestine chống lại Israel.

 

 

 

He refused to negotiate with the Palestine Liberation Organization, even when Israeli leaders considered opening talks.

 

Ông ta từ chối đàm phán với Tổ chức Giải phóng Palestine, ngay cả khi các nhà lãnh đạo Israel cân nhắc mở cuộc đàm phán.

 

 

 

And he refrained from negotiations with Jordan that might have protected Palestinian interests — an oversight that Indyk criticizes.

 

Và ông ta đã cố tự kiềm chế không tham gia các cuộc đàm phán với Jordan, những cuộc đàm phán mà có thể bảo vệ lợi ích của Palestine – một sơ suất mà Indyk chỉ trích.

 

 

 

The Arab leaders Kissinger empowered, Anwar Sadat in Egypt and Hafez al-Assad in Syria, showed little concern for the Palestinian population, and Kissinger knew that.

 

Các nhà lãnh đạo Ả Rập mà Kissinger trao quyền, Anwar Sadat ở Ai Cập và Hafez al-Assad ở Syria, tỏ ra không mấy quan tâm đến người dân Palestine, và Kissinger biết điều đó.

 

 

 

His diplomacy boosted Israel as it alienated the thousands of non-Jews who lived inside the state and its occupied territories.

 

Chính sách ngoại giao của ông ta đã khuyến khích Israel khi quốc gia này cho ra rìa hàng ngàn người không phải người Do Thái sống trong lòng nó và các vùng lãnh thổ mà nó chiếm đóng.

 

 

 

The American Jewish lobby also grew in importance during Kissinger’s tenure.

 

Việc vận động hành lang của người Do Thái ở Mỹ cũng trở nên ngày càng quan trọng hơn trong nhiệm kỳ của Kissinger.

 

 

 

Indyk points to the pressures that Jewish organizations placed on Kissinger, often through Congress.

 

Indyk chỉ ra những áp lực mà các tổ chức Do Thái đặt lên Kissinger, thường là thông qua Quốc hội.

 

 

 

Senators Jacob Javits of New York and Henry “Scoop” Jackson of Washington were two of many who threatened to block legislation and cut off funds if Kissinger did not deliver more for Israel.

 

Các thượng nghị sĩ Jacob Javits của New York và Henry “Scoop” Jackson của Washington là hai trong số nhiều người đe dọa sẽ ngăn chặn thông qua dự luật và cắt ngân quỹ nếu Kissinger không cung đốn thêm cho Israel.

 

 

 

Prime Minister Yitzhak Rabin had especially strong relations with many members of Congress, and he leaned on them to scuttle Kissinger’s calls for concessions.

 

Thủ tướng Yitzhak Rabin có quan hệ đặc biệt bền chặt với nhiều thành viên Quốc hội, và ông này dựa thế họ để hối thúc Kissinger kêu gọi những nhượng bộ.

 

 

 

American Jewish organizations did not dictate U.S. policy, but they set firm boundaries.

 

Các tổ chức Do Thái ở Mỹ không áp đặt lên chính sách của Mỹ, nhưng họ đặt ra những ranh giới vững chắc.

 

 

 

American Arab and Muslim organizations are never mentioned as sources of influence in Indyk’s book.

 

Các tổ chức Ả Rập và Hồi giáo ở Mỹ không bao giờ được đề cập đến như những nguồn ảnh hưởng trong cuốn sách của Indyk.

 

 

 

How did Kissinger’s diplomacy benefit the United States?

 

Chính sách ngoại giao của Kissinger có lợi cho Mỹ ra sao?

 

 

 

Indyk does not address this question directly.

 

Indyk không giải quyết câu hỏi này trực tiếp.

 

 

 

Kissinger made the United States the dominant foreign actor in the region, which was a Cold War victory against the rival Soviet Union.

 

Kissinger đã biến Mỹ thành tác nhân nước ngoài thống trị trong khu vực, đó là một chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh trước đối thủ Liên Xô.

 

 

 

But did this help American interests in the long run?

 

Nhưng chiến thắng này có giúp gì cho lợi ích của Mỹ về lâu dài không?

 

 

 

As Washington sent billions of dollars to Israel and Egypt, many groups in the region turned their anger against the United States.

 

Khi Washington gửi hàng tỷ đô-la cho Israel và Ai Cập, nhiều nhóm trong khu vực đó đã chuyển nỗi căm hận của họ sang phía Mỹ.

 

 

 

When the dictator in Cairo suppressed dissidents and the Israeli government sponsored new Jewish settlements, Washington became a target for the discontented.

 

Khi tên độc tài ở Cairo đàn áp những người bất đồng chính kiến và chính phủ Israel tài trợ cho các khu định cư mới của người Do Thái, Washington đã trở thành mục tiêu của những kẻ bất mãn.

 

 

 

American aid did not give the United States much leverage because both Israel and Egypt now claimed it as a right, with strong supporters in Congress.

 

Viện trợ của Mỹ không mang lại lực đòn bẩy cho Mỹ là mấy vì cả Israel và Ai Cập hiện đều tuyên bố đó là quyền [được hưởng], với những người ủng hộ mạnh mẽ trong Quốc hội.

 

 

 

Indyk describes how difficult it became for presidents to threaten any reductions in assistance to these allies.

 

Indyk miêu tả các tổng thống đã gặp khó khăn đến mức nào khi đe dọa bất kỳ sự cắt giảm viện trợ nào cho các đồng minh này.

 

 

 

The United States bought itself burdensome dependents and many hostile adversaries.

 

Mỹ đã chuốc vào mình cái gánh nặng những kẻ sống dựa và nhiều đối thủ thù địch.

 

 

 

With historical hindsight, Kissinger’s diplomacy appears more successful in personal than policy terms.

 

Khi nhìn lại lịch sử, chính sách ngoại giao của Kissinger có vẻ thành công hơn về mặt cá nhân hơn là về mặt chính sách.

 

 

 

As he did throughout his extraordinary career, Kissinger nurtured a web of relationships among powerful leaders that brought order to a tumultuous landscape.

 

Như những gì đã làm trong suốt sự nghiệp phi thường của mình, Kissinger đã nuôi dưỡng một mạng lưới quan hệ giữa các nhà lãnh đạo quyền lực đã mang lại trật tự cho một bối cảnh hỗn loạn.

 

 

 

He found a way to pull their strings.

 

Ông ta đã tìm ra cách để giật dây họ.

 

 

 

His manipulations, however, did not change the societies that remained in conflict, often because the very leaders who signed the agreements still used hostile rhetoric to keep themselves in power.

 

Tuy vậy, những thao túng của ông ta đã không thay đổi được các xã hội vẫn còn xung đột, thường là bởi chính những nhà lãnh đạo đã ký kết các hiệp định mà vẫn sử dụng những luận điệu thù địch để giữ nguyên quyền lực của mình.

 

 

 

The wars continued by other means.

 

Các cuộc chiến tiếp tục bằng những phương thức khác.

 

 

 

Heroic diplomacy, on the model of Prince Metternich, brings peoples together beyond just their leaders.

 

Chính sách ngoại giao anh hùng, theo mẫu hình của ông hoàng Metternich, gắn kết các dân tộc lại với nhau, chứ không chỉ là các nhà lãnh đạo của họ.

 

 

 

Kissinger’s diplomacy focused so obsessively on the few men at the top that those who lived under them were neglected, and frequently provoked.

 

Chính sách ngoại giao của Kissinger tập trung một cách ám ảnh vào vài người cấp cao nhất đến mức những người dưới quyền họ bị bỏ bê và thường xuyên bị chọc giận.

 

 

 

Among other things, Indyk’s book is a brilliant account of how the mastery of personal diplomacy can depart from the diplomat’s true mission of peace.

 

Ngoài những điều khác ra, cuốn sách của Indyk là một câu chuyện xuất sắc về việc làm chủ  được chính sách ngoại giao cá nhân có thể khởi đầu từ sứ mệnh hòa bình thực thụ của nhà ngoại giao như thế nào.


MASTER OF THE GAME
Henry Kissinger and the Art of Middle East Diplomacy
By Martin Indyk
Illustrated. 688 pp. Alfred A. Knopf. $35.

Chia sẻ: