Chủ nghĩa bảo thủ của một tử tù đã giúp hắn ta được phóng thích như thế nào?

28 9 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Chủ nghĩa bảo thủ của một tử tù đã giúp hắn ta được phóng thích như thế nào?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Thu Phương,

How a Death-Row Inmate’s Embrace of Conservatism Led to His Release

 

Chủ nghĩa bảo thủ của một tử tù đã giúp hắn ta được phóng thích như thế nào?

 

 


 

In a country that incarcerates Black people at a rate five times that of white people, one thing is uncomfortably clear:

 

Tại đất nước người Da đen bị giam giữ với tỷ lệ gấp 5 lần người da trắng thì có một điều hiển nhiên đến khó chịu:

 

 

 

The truth matters less than who controls the narrative.

 

Sự thật không quan trọng bằng người kiểm soát câu chuyện.

 

 

 

The person whose perspective is amplified is more often the one believed.

 

Người có quan điểm phổ biến thường là người được tin tưởng hơn.

 

 

 

Just ask Kyle Rittenhouse, the white Fox News favorite who walks free despite shooting three people during a protest against police violence.

 

Thử hỏi Kyle Rittenhouse, con cưng của Fox News, người da trắng, được tha bổng mặc cho hắn đã bắn chết ba người trong một cuộc biểu tình chống bạo lực cảnh sát.

 

 

 

Or Anthony Broadwater, the Black man whose claims of innocence fell on deaf ears during all 16 years of his wrongful conviction for the rape of the writer Alice Sebold.

 

Hay Anthony Broadwater, người đàn ông Da đen với lời kêu oan bị bác bỏ trong suốt 16 năm chịu án sai vì tội hiếp dâm nhà văn Alice Sebold.

 

 

 

Sarah Weinman’s latest true-crime book, “Scoundrel,” is about who receives the benefit of our doubt and the privileges that attend that trust, whether or not it is warranted.

 

Cuốn sách thể loại tội phạm có thật mới nhất của Sarah Weinman, Scoundrel” (“Kẻ vô lại”), viết về việc ai sẽ được lợi từ những hoài nghi của chúng ta và có được những đặc quyền kèm theo, dù có được xác thực hay không.

 

 

 

In 1957, Edgar Smith, a 23-year-old former Marine who was both a husband and a new father, confessed to the bludgeoning murder of 15-year-old Vickie Zielinski in New Jersey.

 

Năm 1957, Edgar Smith, cựu lính thủy đánh bộ 23 tuổi, vừa là chồng vừa mới làm cha, thú nhận tội ác sát hại cô bé 15 tuổi Vickie Zielinski ở New Jersey.

 

 

 

After deliberating for two hours, a jury convicted him.

 

Sau khi cân nhắc trong hai giờ thì bồi thẩm đoàn kết án hắn.

 

 

 

The judge sentenced him to death and he was sent to Trenton State Prison.

 

Thẩm phán tuyên án tử hình và đưa hắn ta đến Nhà tù Bang Trenton.

 

 

 

What interests Weinman, who writes the Crime column for The New York Times Book Review, is not the murder but what transpired in its wake.

 

Điều khiến Weinman, tác giả chuyên mục Tội phạm cho tờ The New York Times Book Review, quan tâm không phải là vụ giết người mà là những gì xảy ra sau đó.

 

 

 

Through a confluence of events, William F. Buckley Jr., the founder of National Review and one of the architects of the 20th-century conservative movement, learned that Smith was a fan of his publication.

 

Qua một loạt các vụ việc, William F. Buckley Jr., sáng lập nên tạp chí National Review và là một trong những người xây dựng phong trào bảo thủ thế kỷ 20, biết được rằng Smith là fan hâm mộ ấn phẩm của ông.

 

 

 

Flattered, Buckley began to mail the inmate the latest issues.

 

Khoái chí, Buckley bắt đầu gửi cho tù nhân qua thư những số báo mới nhất.

 

 

 

These communications initiated a relationship that would add up to nine years and 1,500 pages of correspondence — and, ultimately, Smith’s release from prison.

 

Cách thức liên lạc này khởi đầu cho mối quan hệ kéo dài khoảng 9 năm với 1.500 trang thư tín —sau cùng, Smith được ra tù.

 

 

 

As the two men got to know each other, Buckley not only came to believe that Smith had been wrongfully convicted but took up his cause, publishing a 12,000-word essay in Esquire making the case for Smith’s innocence; with his fee, he seeded a legal fund for Smith’s defense.

 

Khi hai người quen biết nhau, Buckley không chỉ tin rằng Smith bị kết án oan mà còn đưa ra lý lẽ của mình, cho xuất bản bài tiểu luận dài 12 ngàn từ trên Esquire về việc Smith vô tội; với khoản thù lao nhận được, Buckley gây quỹ pháp bào chữa cho Smith.

 

 

 

The essay drew the attention of Sophie Wilkins, an editor at Alfred A. Knopf, who began her own exchange with Smith and eventually published his account of the murder and its fallout, the best-selling “Brief Against Death.”

 

Bài tiểu luận thu hút sự chú ý của Sophie Wilkins, biên tập viên của Alfred A. Knopf, người từng có cuộc trao đổi riêng với Smith và sau đó cho xuất bản tự truyện của hắn về vụ giết người và hậu quả, chính là cuốn sách bán chạy nhất Brief Against Death” (“Biện hộ trước cái chết”).

 

 

 

When Buckley promoted Smith’s book on TV, it paved the way for his pen pal to become the first convicted murderer nominated to join PEN America.

 

Khi Buckley quảng bá sách của Smith trên TV, nó mở ra con đường cho người bạn trên thư của ông trở thành kẻ sát nhân bị kết án đầu tiên được đề cử tham gia PEN America (Tổ chức Văn bút Mỹ).

 

 

 

The publicity turned Smith into a cause célèbre and led to the overturning of his conviction.

 

Việc quảng bá biến Smith trở thành tiêu điểm gây xôn xao dư luận và dẫn đến xoay chuyển phán quyết.

 

 

 

Buckley picked Smith up from prison in a limousine, plied him with rosé and roast beef, and drove him directly to a sound studio to tape two episodes of his public affairs show,“Firing Line.”

 

Buckley đón Smith từ nhà tù, lên chiếc limousine, tặng hắn ta hoa hồng và thịt bò nướng chất đầy, rồi chở thẳng đến phòng thu âm để ghi hình hai tập cho chương trình truyền hình về công vụ của ông, “Firing Line”.

 

 

 

Smith, who was by then 40 and divorced, married 19-year-old Paige Hiemier, and the couple moved to California, where Smith enjoyed his literary fame — until he attacked another woman.

 

Smith, lúc đó 40 tuổi và đã ly hôn, rồi kết hôn với Paige Hiemier 19 tuổi. Cặp đôi chuyển đến California, nơi Smith tận hưởng sự nổi tiếng của hắn trong giới văn học — cho đến khi hắn ta tấn công một người phụ nữ khác.

 

 

 

This is no spoiler; Weinman reveals all of the above in her introduction.

 

Đây không phải là spoil; Weinman tiết lộ toàn bộ những điều trên trong phần giới thiệu.

 

 

 

By telling us at the beginning how the story will end, Weinman shifts attention from payoff to process.

 

Bằng cách cho chúng ta biết ngay từ đầu câu chuyện sẽ kết thúc như thế nào, Weinman chuyển sự chú ý từ điểm cao trào sang quá trình.

 

 

 

Instead of wondering what will happen, the reader is asked to consider the more important question: how it did.

 

Thay vì tự hỏi điều gì sẽ xảy ra, người đọc được khuyến khích xem xét câu hỏi quan trọng hơn: nó đã xảy ra như thế nào.

 

 

 

In straightforward prose, Weinman diligently and chronologically recreates the judicial proceedings, literary lunches, letter exchanges, prison visits, stays of execution and romances (there were many!) that led from incarceration to exoneration and back again.

 

Bằng lối văn xuôi thẳng thắn, Weinman tái hiện một cách cẩn thận và theo trình tự thời gian các quá trình xét xử, các bữa trưa luận bàn văn học, trao đổi thư từ, thăm tù, hoãn thi hành án và các mối tình lãng mạn (có rất nhiều!) từ khi bị giam giữ đến khi được ân xá và lại vào tù.

 

 

 

Her research is meticulous and extensive, allowing us to witness step by shocking step how Buckley and Wilkins chose to believe and then hand a microphone to a murderer.

 

Nghiên cứu của tỉ mỉ và sâu rộng, cho phép chúng ta chứng kiến từng bước gây sốc cách Buckley và Wilkins chọn để tin tưởng và rồi trao mic cho một kẻ sát nhân như thế nào.

 

 

 

This sort of historical procedural grants all of the players more than enough rope with which to hang themselves.

 

Tiến trình theo thời gian này cho thấy tất cả các nhân vật quá tự do làm những điều ngu ngốc.

 

 

 

Here, for example, is Wilkins writing to Buckley:

 

Ví dụ, đây Wilkins viết cho Buckley:

 

 

 

“And the two of us about to spring, if we could, a possible killer who was nevertheless a gifted nonchalant man who couldn’t conceivably be allowed to be fried alive by the ridiculous state of New Jersey.”

 

“Và cả hai chúng ta sắp được giải thoát, nếu có thể, kẻ có khả năng giết người nhưng lại là kẻ lãnh đạm trời sinh, người không thể tưởng tượng nổi có thể bị bang New Jersey lố bịch cho phép thiêu sống.”

 

 

 

And the entitled Buckley, speaking about the prison warden:

 

Và Buckley, lên tiếng về cai ngục:

 

 

 

“He ought to know that National Review would not sensationalize the case, but rather advance the cause of justice to which he is, after all, presumably himself allied.”

 

“Anh ta nên biết rằng National Review sẽ không kích động vụ việc mà sẽ lên tiếng vì công lý mà anh ta, sau tất cả, nhiều khả năng có liên quan.”

 

 

 

Weinman calls out the misogyny that bought Smith’s freedom.

 

Weinman lên án kẻ thù ghét phụ nữ đã cho Smith tự do.

 

 

 

Despite widespread reaction to Buckley’s Esquire article, no one seemed to notice how he treated Vickie in it.

 

Bất chấp phản ứng bùng nổ đối với bài báo trên Esquire của Buckley, có vẻ không ai để ý đến cách ông ta đối xử với Vickie trong đó.

 

 

 

How he called her “‘flirtatious,’ without any supporting evidence,” implying he believed Smith.

 

Cách ông ta gọi cô là “‘thích ve vãn’, mà không đưa ra bất kỳ minh chứng nào,” cho thấy ông ta tin tưởng Smith.

 

 

 

Or how “Edgar painted Vickie as sexually voracious and manipulative (despite being 15), as if in order to save his own life he was determined to tar hers.”

 

Hay cách “Edgar vẽ Vickie là kẻ cuồng dâmthao túng tình dục (mặc dù mới 15 tuổi), có vẻ như để cứu lấy bản thân, anh buộc phải bôi nhọ danh dự cô”.

 

 

 

There’s Wilkins’s repeated misspelling of Vickie’s name (“Vicki”).

 

Wilkins lặp đi lặp lại lỗi chính tả đối với tên của Vickie (“Vicki”).

 

 

 

And the way Smith squashed Hiemier’s memoir:

 

cái cách Smith bác bỏ cuốn hồi ký của Hiemier cho thấy:

 

 

 

Even behind bars, he had more power.

 

Bất chấp ngồi sau song sắt, hắn ta vẫn có nhiều quyền lực hơn.

 

 

 

But in allowing her characters to self-incriminate, Weinman cedes a modicum of control.

 

Nhưng để cho phép các nhân vật của mình tự thú tội, Weinman phải nhường lại một phần quyền kiểm soát.

 

 

 

I found myself wishing she would indict those involved not just for being despicable but for being complicit.

 

Tôi đã mong bà sẽ buộc tội những kẻ liên quan không chỉ vì thói đê tiện mà còn vì tội đồng lõa.

 

 

 

Instead, Weinman makes Buckley out to be a well-meaning man duped by a cunning manipulator:

 

Thay vào đó, Weinman biến Buckley trở thành người đàn ông tốt bụng bị lừa bởi một kẻ thao túng xảo quyệt:

 

 

 

Buckley, she writes, “thought that Edgar was acting in the best possible faith, with the greatest of intentions, only to realize, too late, that he was doing no such thing at all.”

 

Bà viết: Buckley “tưởng rằng Edgar đang hành động với đức tin cao cả nhất, với mục đích vĩ đại nhất, nhưng quá muộn để nhận ra rằng hắn ta không hề làm điều gì tương tự thế.

 

 

 

When the two first meet, she writes, “the dungeons would be thrown open for his inspection.

 

Khi hai người gặp nhau lần đầu, viết:chốn ngục tối sẽ được công khai cho việc điều tra của ông.

 

 

 

But who would be inspecting whom?”

 

Nhưng ai sẽ điều tra ai?

 

 

 

Weinman presents a possible reason for Buckley’s misplaced trust:

 

Weinman đưa ra lý do hợp lý cho sự đặt niềm tin không đúng chỗ của Buckley:

 

 

 

“Humans are hard-wired to believe what other humans tell them.”

 

Con người tin vào những gì người khác nói với họ theo bản năng.

 

 

 

But this is only half the truth.

 

Nhưng đây chỉ là một nửa sự thật.

 

 

 

Humans are hard-wired to believe what they are told by other humans whom they perceive to be like themselves.

 

Theo bản năng, con người tin tưởng những gì họ nghe được từ người khác, những người mà họ cho là giống mình.

 

 

 

Donald G. M. Coxe, a former National Review correspondent, admits as much:

 

Donald G. M. Coxe, cựu phóng viên của National Review, thừa nhận rằng:

 

 

 

“We were taken in, I suspect, in part by our unwillingness to believe that anyone who loved NR could be a savage killer.”

 

“Tôi nghi ngờ rằng chúng tôi đã bị lừa, một phần do chúng tôi không muốn tin vào bất kỳ ai yêu mến NR lại có thể trở thành một kẻ giết người man rợ.”

 

 

 

Buckley’s outlook — pro-police, pro-capital punishment, supportive of the right “not to get killed, not to get raped, not to get robbed” — was antithetical to Smith’s in many ways.

 

Quan điểm của Buckley ủng hộ cảnh sát, ủng hộ án phạt tử hình, ủng hộ quyền “không bị giết, không bị hãm hiếp, không bị cướp” trái ngược với quan điểm của Smith về nhiều mặt.

 

 

 

But fundamentally, these two were very much alike — both white, male, straight, conservative and financially secure.

 

Nhưng về cơ bản, hai người này rất giống nhau đều là người da trắng, nam giới, thẳng thắn, bảo thủ và đảm bảo về tài chính.

 

 

 

Buckley trusted and gave a national platform to a man he perceived to be like himself.

 

Buckley tin tưởng và đưa cả nền tảng quốc gia cho một người mà ông cho là tương đồng với mình.

 

 

 

And he did this at the expense of the women whose lives were ended or upended by Smith.

 

ông thực hiện điều này với cái giá phải trả là những người phụ nữ bị Smith kết liễu hoặc hủy hoại.

 

 

 

Ultimately, it’s Smith who says the quiet part out loud.

 

Cuối cùng, chính Smith là người công khai bí mật.

 

 

 

“You know why I’m here and not still in jail?” he asked a reporter on the day he was released.

 

Bạn biết sao tôi ở đây mà không phải nhà tù không?hắn ta hỏi một phóng viên vào ngày hắn được trả tự do.

 

 

 

“Because I’m not Black, poor or dumb.

 

“Vì tôi không phải người Da đen, nghèo hay đần độn.

 

 

 

That’s the secret.”

 

Đó là bí mật đấy.

 

 

 

He might have added “or a woman.”

 

Hắn đã định bồi thêm “hay một người phụ nữ.

 

 

 

Thanks to Weinman, it’s not a secret anymore.

 

Cảm ơn Weinman, nó không còn là bí mật nữa rồi.


SCOUNDREL
How a Convicted Murderer Persuaded the Women Who Loved Him, the Conservative Establishment and the Courts to Set Him Free
By Sarah Weinman
464 pp. Ecco. $28.99.

Chia sẻ: