How Did a $2 Billion Trove of Art End Up in a Random Attic in France?
|
|
Làm thế nào một kho tàng
nghệ thuật trị giá hai tỷ USD lại đến được căn phòng áp mái ngẫu nhiên ở
Pháp?
|
|
|
|
In a new book, Michael Finkel tells the story of Stéphane
Breitwieser, “perhaps the most successful and prolific art thief who has ever
lived.”
|
|
Trong cuốn sách mới của
mình, Michael Finkel kể câu chuyện về Stéphane Breitwieser, “tên đạo chích
tác phẩm nghệ thuật có lẽ thành công và hiệu quả nhất trên đời.”
|
|
|
|
At first, Stéphane Breitwieser, the subject of Michael Finkel’s “The
Art Thief,” appears to be having an enviable amount of fun.
|
|
Thoạt đầu, Stéphane
Breitwieser, nhân vật chính trong cuốn sách “The Art Thief” ("Kẻ đạo
chích nghệ thuật") của Michael Finkel, có vẻ có khá nhiều niềm vui đáng
ghen tị.
|
|
|
|
Twenty-five years old and living with his girlfriend, Anne-Catherine
Kleinklaus, in a small set of upstairs rooms in his mother’s home in a
“hardscrabble” manufacturing suburb in eastern France, Breitwieser is
unburdened by such quotidian concerns as a job, making rent or planning for
the future.
|
|
Hai mươi lăm tuổi và chung
sống với bạn gái của y là
Anne-Catherine Kleinklaus trong dãy phòng nhỏ ở tầng trên căn nhà của mẹ y tại
vùng ngoại ô sản xuất “khốn khó” ở miền đông nước Pháp, Breitwieser không nặng
gánh với những mối lo âu thường nhật như công ăn việc làm, kiếm tiền thuê nhà
hoặc lên kế hoạch cho tương lai.
|
|
|
|
He fancies himself a purer sort of soul, so devoted to beauty he
must, in Finkel’s words, “gorge on it.”
|
|
Y tự cho mình là thứ người có tâm hồn trong sạch
hơn, tận tâm với cái đẹp đến mức, theo lời Finkel, y phải “ngấu nghiến nó”.
|
|
|
|
Over the course of a dizzying 200 pages that are also an effective
advertisement for Swiss Army knives (Breitwieser’s only tool), he removes
artwork after artwork from museums — a.k.a. “prisons for art” — and becomes
“perhaps the most successful and prolific art thief who has ever lived.”
|
|
Xuyên suốt 200 trang sách
khiến ta quay cuồng đầu óc, mà đồng thời cũng là quảng cáo hiệu quả cho con
dao díp đa năng của Quân đội Thụy Sĩ (công cụ duy nhất của Breitwieser), y gỡ
lấy hết tác phẩm nghệ thuật này đến tác phẩm nghệ thuật khác từ các viện bảo
tàng – hay còn gọi là “nhà tù dành cho các tác phẩm nghệ thuật” – và trở
thành “tên đạo chích tác phẩm nghệ thuật có lẽ thành công và hiệu quả nhất
trên đời.”
|
|
|
|
He piled all $2 billion worth of artifacts he amassed over eight
years into that same attic in his mother Mireille Stengel’s “nondescript”
stucco house.
|
|
Y đã chất đống toàn bộ tác
phẩm nghệ thuật trị giá hai tỷ USD mà y cóp nhặt trong hơn tám năm trời vào
cùng một căn phòng áp mái đó trong ngôi nhà trát vữa “chẳng có gì nổi bật” của
bà Mireille Stengel mẹ y.
|
|
|
|
All this Breitwieser secreted away in the couple’s lair not to be
fenced for money, but for the pair alone to enjoy waking up to in the
morning: like George Petel’s 1627 sculpture “Adam and Eve” on the bedside
table, next to a 19th-century blown-glass vase and a blue and gold tobacco
box “commissioned by Napoleon himself.”
|
|
Breitwieser cất giấu tất cả
những thứ đó trong hang ổ của cặp đôi này không phải để bán lấy tiền, mà để
chỉ riêng họ có thể thưởng thức mỗi khi thức dậy buổi sáng: chẳng hạn như tác
phẩm “Adam và Eve” do George Petel điêu khắc năm 1627 bày trên chiếc bàn nhỏ
cạnh giường ngủ, kế bên là chiếc bình hoa bằng thủy tinh thổi thế kỷ 19 và hộp
thuốc lá màu xanh và vàng “được chính Napoléon đặt làm”.
|
|
|
|
Finkel’s account, based largely on interviews with Breitwieser, is of
a romantic hero who disdains practical details as much as security ones, and
who is “crushed” when Stengel deigns to buy Ikea furniture.
|
|
Câu chuyện của Finkel, đa
phần dựa trên những cuộc phỏng vấn Breitwieser, là câu chuyện về một người
hùng lãng mạn, kẻ coi khinh những khía cạnh thực dụng cũng như những nhóm bảo
vệ tư nhân, và là người cảm thấy “bẽ mặt” khi bà Stengel hạ cố mua đồ nội thất
của Ikea.
|
|
|
|
“I am like the opposite of everyone,” he declares, finding “his
problem … incurably existential:
|
|
“Tôi kiểu như đối lập với
tất cả mọi người,” y tuyên bố, nhận thấy “vấn đề của y… là về sự tồn tại
không gì cứu vãn nổi:
|
|
|
|
He was born in the wrong century.”
|
|
Y đã sinh nhầm thế kỷ.”
|
|
|
|
That Finkel aligns the reader’s sympathies with the point of view of
the criminal makes for a heady rush of freudenfreude.
|
|
Việc Finkel đặt sự đồng cảm
của độc giả song song với quan điểm của kẻ tội phạm gây nên cơn phấn khích
freudenfreude [cảm giác vui sướng khi người khác thành công].
|
|
|
|
The romanticized portrait of a complicated male subject is a formula
Finkel has found success with before:
|
|
Bức chân dung được tiểu
thuyết hóa về nhân vật nam giới phức tạp là công thức trước đó đã giúp Finkel
thu được thành công:
|
|
|
|
His best-selling previous book, “The Stranger in the Woods,” about
the Maine hermit Christopher Thomas Knight, was similarly expanded from an
article in GQ.
|
|
Cuốn “The Stranger in the
Woods” (“Người lạ trong khu rừng”) về ẩn sĩ Christopher Thomas Knight xứ
Maine là cuốn sách bán chạy nhất trước đây của ông cũng được phát triển tương
tự như vậy từ bài báo trên tạp chí GQ.
|
|
|
|
Yet despite this book’s slim size, Finkel’s efforts to fill its pages
eventually strain, padding them with generic musings on why people make art
and head-scratching lines like, “Yellow is the hue least harmonious to a
banana.”
|
|
Thế nhưng, cho dù đây là
cuốn sách mỏng, Finkel rốt cuộc phải nỗ lực rất căng để viết kín các trang của
nó, thêm vào nỗ lực đó là những suy tư chung chung về lý do vì sao con người
sáng tạo nghệ thuật và những câu khiến người ta phải đau đầu như "Màu
vàng là màu sắc kém hài hòa nhất đối với một quả chuối".
|
|
|
|
His reliance on tropes gives the book a paint-by-numbers feel: the
bad boy; the cautious ingénue girlfriend who longs for a more normal life;
the mother who “coddled” her son too much and claims she never once wandered
up the stairs to confront what he was actually up to.
|
|
Sự dựa dẫm của tác giả vào
phép tu từ khiến cuốn sách có vẻ công thức: gã trai hư; cô bạn gái ngây thơ
thận trọng khao khát cuộc sống bình thường hơn; bà mẹ quá “nâng niu” đứa con
trai mình và tuyên bố rằng bà chưa một lần bước lên tầng trên để chất vấn xem
cậu con thực sự đang lén lút làm gì.
|
|
|
|
Finkel includes satisfying evidence of this astounding loot in a
color insert that shows a crammed jumble of “ethereal” ivory carvings, shining
silver goblets, unctuous oil paintings and more.
|
|
Finkel gộp bằng chứng thỏa
mãn về những đồ vật đánh cắp được đáng kinh ngạc này vào phụ trương đầy màu sắc
trưng ra mớ hổ lốn chật ních các tác phẩm “tinh tế”chạm khắc bằng ngà voi, những
chiếc cốc bạc sáng ngời, những bức tranh sơn dầu bóng láng và nhiều thứ khác
nữa.
|
|
|
|
By the end, we’re left with signs that what we’ve been offered is
only a rough sketch, not the more complicated truth.
|
|
Đến đoạn cuối, chúng ta được
để lại những dấu hiệu cho thấy những gì chúng ta được đọc chỉ là bức phác họa
sơ sài chứ chẳng phải sự thật phức tạp hơn kia.
|
|
|
|
Finkel portrays Breitwieser as a pure aesthete motivated solely by
aesthetic passion, but later he’s also arrested for simple shoplifting.
|
|
Finkel miêu tả Breitwieser
như một người đơn thuần là biết thưởng thức cái đẹp bị thúc đẩy chỉ bởi niềm
đam mê mỹ học, nhưng sau này y cũng bị bắt vì tội trộm cắp vặt ở cửa hàng.
|
|
|
|
Finkel writes that “the world’s beauty, to Breitwieser, peaks with
Anne-Catherine and their art collection,” but in a shocking turn the author
brushes past, Kleinklaus says under oath that Breitwieser hit her after
learning she’d hid an abortion.
|
|
Finkel viết “cái đẹp của
thế gian này, đối với riêng Breitwieser, đạt đến đỉnh cao với Anne-Catherine
và bộ sưu tập nghệ thuật của cặp đôi này”, nhưng trong diễn biến gây sốc mà
tác giả chỉ lướt qua, Kleinklaus khai trước tòa rằng Breitwieser đã đánh cô
sau khi biết được cô đã giấu giếm phá thai.
|
|
|
|
“He scared me,” she tells a courtroom; to a detective, she says, “I
was just an object to him.”
|
|
“Anh ấy làm tôi sợ,” cô
nói trên phiên tòa; với một thám tử, cô bảo: "Đối với anh ta, tôi chỉ là
một đồ vật".
|
|
|
|
Finally, did Stengel really never suspect what her son was up to in
her home?
|
|
Rốt cuộc, có thực là
Stengel chưa từng nghi ngờ con trai mình đang lén lút làm gì trong nhà của bà
không?
|
|
|
|
Was her frenzied “attic purge” — during which she hurled silver
pieces into a canal and burned paintings in a forest — really the “ultimate
expression of maternal love” Breitwieser interprets it to be?
|
|
Liệu cuộc “thanh trừng
trên tầng áp mái” điên cuồng của bà – khi bà ta ném những đồ vật bằng bạc xuống
một con kênh và đốt những bức tranh trong khu rừng – có thực là “biểu hiện tột
bậc của tình mẫu tử” như lời Breitwieser giải thích không?
|
|
|
|
(She herself tells the police, “I wanted to hurt my son, to punish
him.”)
|
|
(Chính bà nói với cảnh sát
rằng “Tôi muốn làm con trai mình tổn thương, để trừng phạt nó”.)
|
|
|
|
It is by far the most shocking act in the book, but — as with the
characters of Stengel and Kleinklaus — Finkel leaves it frustratingly opaque.
|
|
Đó chắc chắn là hành động
gây sốc nhất trong cuốn sách, song – cũng như với tính cách của Stengel và
Kleinklaus – Finkel để nó mơ hồ một cách khó chịu.
|
|
|
|
He renders every complication and contradiction in broad strokes,
rushing ahead to a swift and unsatisfying conclusion, as though too taken in
by his own romantic telling to disrupt it.
|
|
Ông thể hiện mọi sự phức tạp
và mâu thuẫn bằng những nét vẽ khoáng đạt, vội vã đi đến kết luận nhanh chóng
và không đem lại sự thỏa mãn, như thể bị cuốn hút quá vào câu chuyện lãng mạn
của chính mình nên khó mà ngắt quãng nó được.
|
|
|
|
Great art, Breitwieser knows, surprises.
|
|
Nghệ thuật cao cả, như
Breitwieser nhận biết, thường đem đến những bất ngờ.
|
|
|
|
“The Art Thief” — a popcorn flick of a book that will nonetheless
keep readers riveted — does not.
|
|
Song “The Art Thief” – cuốn
sách giải trí thú vị tuy thiếu chiều sâu nhưng vẫn sẽ thu hút được độc giả –
thì không.
|