Cuốn sách “The Chancellor” miêu tả chân dung bà Angela Merkel như nguồn hài hước lành mạnh trong một thế giới điên loạn

25 11 / 2021
Đăng bởi: lovebird21c

Cuốn sách “The Chancellor” miêu tả chân dung bà Angela Merkel như nguồn hài hước lành mạnh trong một thế giới điên loạn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

‘The Chancellor’ Portrays Angela Merkel as a Droll Source of Sanity in a Mad World

 

Cuốn sách “The Chancellor” (“Bà Thủ tướng”) miêu tả chân dung bà Angela Merkel như nguồn hài hước lành mạnh trong một thế giới điên loạn

 

 


 

German Chancellor Angela Merkel is famous for her plain but direct style.

 

Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel rất nổi tiếng về phong cách chất phác mà bộc trực của mình.

 

 

 

“I have no charisma,” she once complained to Tony Blair, “and I’m not good at communicating.”

 

“Tôi không có sức thu hút,” một lần bà đã than thở với ông Tony Blair, “và tôi  không giỏi giao tiếp.”

 

 

 

She was wrong on both counts.

 

Bà đã sai về cả hai điểm này.

 

 

 

Her anti-exuberance, in a world gone mad, has grown magnetic.

 

Cái tính đối lập với sự hoa mỹ của bà, trong một thế giới đã hóa điên, đã ngày càng trở nên hấp dẫn hơn.

 

 

 

As for communication, her droll mien — those imperceptible smiles, those subtly wrinkled eyebrows — speaks volumes.

 

Về phần giao tiếp, vẻ mặt hài hước của bà – những nụ cười thoáng qua, đôi lông mày nheo lại một cách tinh tế đó – đã nói lên rất nhiều.

 

 

 

When she shared daises with Donald J. Trump, she would roll her eyes toward him incredulously, as if he were belching up a series of detergent pods.

 

Khi chia sẻ diễn đàn với Donald J. Trump, bà hồ nghi đảo mắt về phía ông ta, cứ như thể ông ta đang phun ra hàng loạt bao bì chất tẩy rửa vậy.

 

 

 

Merkel is a counterforce to ignorance and bluster, and the free world will miss her when she is gone.

 

Merkel là lực đối kháng với sự ngu dốt và khoe khoang khoác lác, và thế giới tự do sẽ nhớ bà khi bà ra đi.

 

 

 

(She is stepping down this year after four terms.)

 

(Năm nay bà sẽ từ nhiệm sau bốn nhiệm kỳ.)

 

 

 

She rose to become its de facto moral leader by displaying steel blended with a seemingly vanished trait: humility.

 

Bà đã vượt lên thành nhà lãnh đạo tinh thần không chính thức của thế giới ấy bằng cách thể hiện chất thép pha trộn với một đặc điểm dường như đã biến mất: tính khiêm nhường.

 

 

 

Kati Marton’s new biography, “The Chancellor: The Remarkable Odyssey of Angela Merkel,” is a bit like Merkel herself: calm, dispassionate, not afraid to bore us.

 

Cuốn tiểu sử mới của Kati Marton “The Chancellor: The Remarkable Odyssey of Angela Merkel” (“Bà Thủ tướng: Hành trình mạo hiểm phi thường của Angela Merkel”) khá giống với bản thân bà Merkel: điềm tĩnh, bình thản, chẳng sợ khiến chúng ta buồn chán.

 

 

 

Marton is the author of nine previous books, including “True Believer: Stalin’s Last American Spy” (2016) and “Enemies of the People: My Family’s Journey to America” (2009).

 

Trước cuốn tiểu sử này, Marton đã là tác giả của 9 cuốn sách, bao gồm “True Believer: Stalin’s Last American Spy” (“Tín đồ đích thực: Điệp viên Mỹ cuối cùng của Stalin”) (2016) và “Enemies of the People: My Family’s Journey to America” (Kẻ thù của nhân dân: Cuộc hành trình tới Mỹ của gia đình tôi” (2009).

 

 

 

She has been an NPR correspondent and was the ABC News bureau chief in Germany.

 

Chị là phóng viên của Đài NPR và từng là trưởng văn phòng ABC News tại Đức.

 

 

 

She was married to the diplomat Richard Holbrooke, who in 1993 and 1994 was the United States ambassador to Germany.

 

Cô kết hôn với nhà ngoại giao Richard Holbrooke, ông là đại sứ Mỹ tại Đức các năm 1993 và 1994.

 

 

 

It’s no simple task to write a biography of Merkel.

 

Viết tiểu sử về Merkel chẳng dễ dàng gì.

 

 

 

She is famously private.

 

Bà có tiếng là kín đáo.

 

 

 

She doesn’t use email and rarely texts.

 

Bà không sử dụng email và hiếm khi nhắn tin.

 

 

 

Even longtime staffers have never visited her unassuming private residence.

 

Ngay cả những nhân viên lâu năm cũng chưa bao giờ đến thăm tư gia khiêm tốn của bà.

 

 

 

There are no tell-all books.

 

Không có cuốn sách nào bộc lộ những chi tiết đời tư cả.

 

 

 

She ejects the indiscreet from her life.

 

Bà tống khứ sự vô ý hớ hênh khỏi cuộc sống của mình.

 

 

 

Merkel didn’t talk to Marton for this book.

 

Merkel đã chẳng chuyện trò gì với Marton vì cuốn sách này.

 

 

 

Many readers will find it a balm.

 

Nhiều người đọc sẽ thấy nó như một niềm an ủi.

 

 

 

When the author does get a quote out of someone close to Merkel, it’s often a banality, such as “she’s funny as hell” or “she loves to read.”

 

Khi tác giả trích dẫn một câu nào đó của một người gần gũi với bà Merkel, thì đó thường là một câu nói sáo rỗng, chẳng hạn như “bà ấy cực khôi hài” hoặc “bà ấy thích đọc”.

 

 

 

But give Marton credit.

 

Nhưng hãy dành cho Marton lời khen ngợi.

 

 

 

She has doggedly retraced Merkel’s trail, and the story she brings is a good one.

 

Chị đã khăng khăng vẽ lại vết chân trên đường của bà Merkel và câu chuyện mà chị trình làng là một câu chuyện hay.

 

 

 

It’s instructive to spend time in Merkel’s competent and humane company.

 

Thật hữu ích khi dành thời gian đồng hành với Merkel tài giỏi và nhân văn.

 

 

 

Merkel, who was born in 1954, grew up in Soviet-controlled East Germany, eventually behind the Berlin Wall.

 

Sinh năm 1954, Merkel đã lớn lên ở Đông Đức dưới quyền kiểm soát của Liên Xô, rốt cuộc là ở phía sau Bức tường Berlin.

 

 

 

Her father was a pastor who never quite approved of her.

 

Cha bà là một mục sư hầu như chẳng bao giờ tán thành bà.

 

 

 

Standing out was dangerous in East Germany, so she learned not to do it.

 

Nổi bật là điều nguy hiểm ở Đông Đức, vì vậy bà đã học cách không làm điều đó.

 

 

 

She studied physics in college, she said, “because even East Germany wasn’t capable of suspending basic arithmetic and the rules of nature.”

 

Bà học vật lý ở đại học, bà nói, "bởi vì ngay cả Đông Đức cũng không thể đình chỉ môn số học cơ bản và các quy luật tự nhiên."

 

 

 

She married for the first time at 23.

 

Bà kết hôn lần đầu năm 23 tuổi.

 

 

 

It didn’t last long.

 

Cũng chẳng được bao lâu.

 

 

 

The marriage was in part a practicality, her former husband later suggested:

 

Cuộc hôn nhân này có phần thực dụng, chồng cũ của bà sau đó ám chỉ:

 

 

 

Married students were more likely to get an apartment.

 

Sinh viên đã kết hôn nhiều khả năng được phân căn hộ hơn.

 

 

 

Merkel’s most important reading, during this period, was history.

 

Trong thời kỳ này, cái quan trọng nhất mà bà Merkel đọc là lịch sử.

 

 

 

East Germans had been fed a false narrative about World War II.

 

Người Đông Đức đã bị nhồi sọ một câu chuyện sai sự thật về Thế chiến II.

 

 

 

They were led to believe that East Germany had resisted Hitler.

 

Họ bị dẫn dắt để tin rằng Đông Đức đã chống lại Hitler.

 

 

 

Jews were rarely mentioned.

 

Người Do Thái hiếm khi được đề cập đến.

 

 

 

The truth was a shock.

 

Sự thật là một cú sốc.

 

 

 

Merkel grew to realize that Germany owned a permanent debt to Jews, and this conviction — her feeling for the mistreated — led her to the moral decision, in 2015, to accept hundreds of thousands of Syrian and other refugees into her country.

 

Merkel dần dà nhận ra rằng nước Đức vĩnh viễn nợ người Do Thái, và sự nhận thức về tội lỗi này – tình cảm của bà đối với những người bị ngược đãi – đã khiến bà đi đến quyết định hợp đạo lý, vào năm 2015, chấp nhận hàng trăm nghìn người Syria và những người tị nạn khác vào đất nước của bà.

 

 

 

Merkel drifted only slowly into politics.

 

Merkel hướng theo chính trị một cách chậm rãi.

 

 

 

She chose a right-leaning party; she’d had enough of socialist experiments.

 

Bà chọn một đảng thiên về cánh tả; bà đã có đủ thử nghiệm xã hội chủ nghĩa.

 

 

 

She revered America.

 

Bà tôn sùng nước Mỹ.

 

 

 

Among her heroes was George H.W. Bush, for helping Germany unify after the wall fell.

 

Trong số những thần tượng của bà có George H.W. Bush, vì đã giúp nước Đức thống nhất sau khi bức tường sụp đổ.

 

 

 

“I remember well when Angela came to our first meeting,” a contemporary recalled.

 

“Tôi còn nhớ rõ khi Angela đến buổi họp đầu tiên của chúng tôi,” một người cùng thời với bà kể lại.

 

 

 

“She was very reserved, very modest and looked younger than 35.

 

“Bà ấy rất dè dặt, rất khiêm tốn và trông trẻ hơn cái tuổi 35.

 

 

 

She wore a shapeless corduroy skirt and sort of Jesus sandals.

 

Bà ấy mặc một chiếc váy nhung kẻ lụng thụng và đi đôi xăng đan kiểu Chúa Jesus.

 

 

 

Her hair was cut in a Dutch boy bob.”

 

Tóc bà ấy cắt ngắn kiểu Dutch boy bob.”

 

 

 

Within 15 years, after serving as minister of the environment under Helmut Kohl, she rose to become the first female chancellor of Germany.

 

Trong vòng 15 năm, sau khi làm Bộ trưởng Bộ Môi trường dưới quyền Thủ tướng Helmut Kohl, bà đã thăng tiến thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đức.

 

 

 

Marton tracks the issues that matter to Merkel.

 

Marton lần theo dấu vết những vấn đề quan trọng đối với bà Merkel.

 

 

 

She’s a trained physicist who phased out Germany’s nuclear energy program after the 2011 accident in Fukushima, Japan.

 

Là một nhà vật lý được đào tạo, bà đã từng bước loại bỏ chương trình năng lượng hạt nhân của Đức sau vụ tai nạn năm 2011 ở Fukushima, Nhật Bản.

 

 

 

We watch her struggle to hold the European Union together.

 

Chúng ta theo dõi cuộc đấu tranh của bà để giữ cho Liên minh Châu Âu gắn kết.

 

 

 

We witness the evolution of her positions on immigration.

 

Chúng ta chứng kiến ​​sự phát triển những quan điểm về nhập cư của bà.

 

 

 

There are her close relationships with Barack Obama and Emmanuel Macron; her staring contests with Vladimir Putin; her attempts to get through to Trump by wooing his daughter Ivanka.

 

Có những mối quan hệ thân thiết của bà với Barack Obama và Emmanuel Macron; những cuộc đối đầu không nhân nhượng của bà với Vladimir Putin; nỗ lực của bà để kết nối thành công với Trump bằng cách tranh thủ con gái Ivanka của ông ta.

 

 

 

Marton calls this book “a human rather than a political portrait,” and personal details do emerge.

 

Marton gọi cuốn sách này là “chân dung một con người thì đúng hơn là chân dung một chính trị gia,” và các chi tiết cá nhân cũng nổi bật lên.

 

 

 

Merkel likes to stand up and make coffee for her guests in a kitchenette, using the informal occasion to ask questions and break the ice.

 

Merkel thích đứng dậy và pha cà phê cho khách trong căn bếp nhỏ, lợi dụng những dịp thân mật để hỏi han và phá vỡ không khí dè dặt ban đầu.

 

 

 

She does her own grocery shopping.

 

Bà tự đi mua đồ tạp hóa cho mình.

 

 

 

She’s a soccer fan and tends to curse only over missed goals.

 

Bà hâm mộ bóng đá và có xu hướng chỉ chửi thề khi những bàn thắng bị hụt.

 

 

 

Her husband, a quantum chemist — they have no children together, though he has two grown sons from a previous marriage — stays out of the limelight.

 

Chồng bà, một nhà hóa học lượng tử – họ không có con chung, mặc dù ông có hai con trai lớn từ cuộc hôn nhân trước – không phải là tâm điểm chú ý của công chúng.

 

 

 

There are hints of a more playful side.

 

Có những gợi mở về một khía cạnh vui nhộn hơn.

 

 

 

She is famous for her social stamina and, Blair once said, “likes to sit up late and have a lively time.”

 

Bà nổi tiếng với khả năng chịu đựng xã hội của mình và, như Blair từng nói, “thích ngồi đến khuya và vui vẻ sôi động.”

 

 

 

She is said to be a gifted mimic, especially of Putin.

 

Bà được cho là người có năng khiếu bắt chước, đặc biệt là bắt chước Putin.

 

 

 

She has been known to tell off-color jokes about an aspect of Putin’s anatomy.

 

Bà có tiếng là người kể những câu chuyện hài hước không mấy nhã nhặn về một khía cạnh mổ xẻ Putin.

 

 

 

On occasion “The Chancellor” veers toward hagiography, but it steps quickly away again.

 

Đôi khi, cuốn "The Chancellor" chuyển hướng sang tiểu sử các vị thánh, song nó nhanh chóng rời khỏi hướng này.

 

 

 

Marton is a critical observer, especially of Merkel’s tendency not to articulate her deeper feelings, her frequent failure to win over hearts as well as minds.

 

Marton là một nhà quan sát có óc phê bình, đặc biệt là về cái khuynh hướng không nói rõ ra những cảm xúc sâu sắc hơn của bà Merkel, cũng như sự thất bại thường xuyên của bà trong việc thu phục tâm trí người khác.

 

 

 

German politicians, Merkel is aware, have reason to beware soaring oratory.

 

Bà Merkel biết rõ rằng các chính trị gia của Đức có lý do để đề phòng những lời hùng biện có cánh.

 

 

 

This book is a bedtime story of a queasy sort, or so it can seem.

 

Cuốn sách này là loại chuyện cổ tích không có hậu, hoặc nó có vẻ là như vậy.

 

 

 

It’s as if Marton, via her subject, were tucking the old liberal order in and wishing it a good night, for tomorrow it may die.

 

Cứ như thể Marton, thông qua chủ đề của chị, đang ấn cái trật tự tự do cũ vào giường và chúc nó ngủ ngon, vì ngày mai có thể nó sẽ chết.


The Chancellor: The Remarkable Odyssey of Angela Merkel
By Kati Marton
Illustrated. 344 pages. Simon & Schuster. $30.

Chia sẻ: