How New York City Pulled Itself Out of the Lower Depths
|
|
Thành phố New York tự kéo mình lên khỏi vực thẳm như thế nào?
|
|
|
|
You will have a
hard time getting through Thomas Dyja’s “New York, New York, New York,”
mostly because there is an idea on every page, if not in every paragraph —
and usually attached to a perfect line from the host of sources he has
collected for this history of New York City over its last four rollicking
decades.
|
|
Bạn sẽ thấy cuốn “New York, New York, New York” của Thomas Dyja khó đọc,
chủ yếu bởi trong mỗi trang sách, thậm chí trong mỗi đoạn văn đều chứa một
quan điểm — và thường gắn với một câu hoàn chỉnh trích từ hàng loạt nguồn
tham khảo tác giả thu thập để viết về lịch sử Thành phố New York trong bốn thập
kỷ ồn ào vừa qua.
|
|
|
|
Here is the
journalist Michael Tomasky fretting that “there’s only so much wholesomeness
New York can take,” the graphic designer Tibor Kalman advising us that Times
Square “should be a zoo, like the rest of New York, but a well-maintained zoo
instead of a depressed, unemployed and crack-smoking kind of zoo,” and the
philanthropist Andrew Heiskell promising a crime-free Bryant Park:
|
|
Nhà báo Michael Tomasky bực dọc nói “New York chỉ tử tế đến thế mà thôi,”
nhà thiết kế đồ họa Tibor Kalman nói với chúng ta rằng Quảng trường Thời đại
“lẽ ra nên là cái sở thú, cả New York cũng thế, nhưng nên là vườn thú được
chăm sóc tốt chứ không phải cái sở thú trì trệ, thất nghiệp và nghiện ngập,”
còn nhà từ thiện Andrew Heiskell cam đoan Công viên Bryant sẽ không có tội phạm:
|
|
|
|
“All the hiding
places have been eliminated.”
|
|
"Chỗ nào trốn được đều bị xóa bỏ rồi."
|
|
|
|
Here is Spy
magazine headlining Rudy Giuliani as “The Toughest Weenie in America,” Jules
Feiffer calling Elaine’s “a men’s club for the literary lonely,” the writer
Lewis Lapham diagnosing money as “the sickness of the town” and the
architecture critic Ada Louise Huxtable calling Harry Helmsley’s Palace Hotel
tower “a curtain wall of unforgivable, consummate mediocrity.”
|
|
Tạp chí Spy đặt tiêu đề về Rudy Giuliani là “Kẻ hèn nhát cứng rắn nhất nước
Mỹ,” Jules Feiffer gọi Elaine là “câu lạc bộ đàn ông dành cho những người cô
đơn có học thức,” nhà văn Lewis Lapham chẩn đoán tiền là “căn bệnh của thành
phố” và nhà phê bình kiến trúc Ada Louise Huxtable gọi tòa Khách sạn Palace của
Harry Helmsley là “tấm bình phong che đậy sự tầm thường quá đỗi không thể tha
thứ được.”
|
|
|
|
And from Dyja
himself:
|
|
Và lời của chính tác giả Dyja:
|
|
|
|
“In the
Meatpacking District, both sides of beef and gay men hung from hooks”; hedge
funds “meant leaving the rich to their own devices; historically, a dangerous
idea,” and “while the smart money had been going to real estate, so had the
stupid money.”
|
|
“Ở Quận Meatpacking, cả hai mặt của miếng thịt bò và những người đồng
tính nam đều treo trên móc;” các quỹ đầu tư thì “có ý định mặc người giàu làm
gì thì làm; về mặt lịch sử, đó là quan điểm nguy hiểm,” và “trong khi tiền
thông minh chuyển sang bất động sản, thì tiền ngu cũng vậy.”
|
|
|
|
“Bruce Ratner
believed he made money doing good — the story many in New York had been
telling about themselves for a decade”; Richard Ravitch “had the burly sense
of purpose found in fighting mammals of the Upper Midwest”; Jeff Van Gundy
“led the Knicks to the N.B.A. finals with all the ugly luck of finding a
winning scratch-off on a bodega floor”; Al Sharpton “on the face of it … had
a deathbed conversion, but really he’d just rebranded.”
|
|
“Bruce Ratner tin rằng anh ta kiếm được tiền nhờ làm việc tốt — câu chuyện
nhiều người ở New York tự nói về bản thân trong suốt một thập kỷ”; Richard
Ravitch “tìm được mục đích lớn lao khi chiến đấu với đám thú vật ở vùng Upper
Midwest”; Jeff Van Gundy thì “dẫn dắt đội Knicks đến trận chung kết NBA với
may mắn không hay ho lắm chẳng khác nào tìm được tờ vé số cào trúng thưởng
trên sàn quán rượu;” Al Sharpton “ngoài mặt thì…có sự chuyển đổi sống còn,
nhưng thực sự chỉ là bình mới rượu cũ.”
|
|
|
|
And “of all the
things Abe Beame can be blamed for, Donald J. Trump is by far the worst.”
|
|
Và "trong tất cả những chuyện người ta có thể đổ lỗi cho Abe Beame,
Donald J. Trump cho đến giờ là điều tệ hại nhất."
|
|
|
|
“New York x 3”
begins on Feb. 14, 1978, designated “I Love New York Day” for the ubiquitous
jingle introduced that afternoon, part of a last-ditch publicity campaign to
revive a city that even those who loved it feared was dying.
|
|
Cuốn “New York x 3” mở đầu bằng ngày 14 tháng 2 năm 1978, kể lại điệp
khúc xuất hiện khắp nơi “Tôi yêu Ngày New York” bắt đầu từ chiều hôm ấy, đó
cũng là một phần nỗ lực cuối cùng của chiến dịch truyền thông nhằm hồi sinh một
thành phố ngay cả những người yêu mến nơi đó cũng lo sợ thành phố đang sắp lụi
tàn.
|
|
|
|
But New York
wasn’t dying, and why it wasn’t — the women and men, policies and plans,
trends and revolutions in everything from music to technology to public
spaces to private desires that transformed it — is Dyja’s story.
|
|
Nhưng New York không lụi tàn, và lý do vì sao — phụ nữ và đàn ông, chính
sách và kế hoạch, xu hướng và cách mạng trong mọi thứ, từ âm nhạc đến công
nghệ đến nơi công cộng đến những mong muốn cá nhân làm thành phố biến đổi —
chính là câu chuyện của tác giả Dyja.
|
|
|
|
What he has
produced is a tour de force, a work of astonishing breadth and depth that
encompasses seminal changes in New York’s government and economy, along with
deep dives into hip-hop, the AIDS crisis, the visual arts, housing,
architecture and finance.
|
|
Những gì tác giả viết nên quả thực là thành tựu lớn, một tác phẩm sâu rộng
đáng kinh ngạc bao trùm cả những thay đổi căn bản trong chính quyền và nền
kinh tế New York, đồng thời đi sâu vào hip-hop, cuộc khủng hoảng bệnh AIDS,
nghệ thuật thị giác, nhà ở, kiến trúc và tài chính.
|
|
|
|
It’s quite a
high-wire act, and one that Dyja, who has previously written a cultural
history of Chicago, pulls off without ever losing the rush of his narrative.
|
|
Đây là tác phẩm khá mạo hiểm, và là cuốn sách tác giả Dyja, trước đây từng
viết về lịch sử văn hóa của Chicago, thành công hoàn thiện mà không đánh mất
tính dồn dập trong mạch kể chuyện.
|
|
|
|
He slips in
telling statistics with the skill of a banderillero, using them always to
secure a point and move his story forward.
|
|
Tác giả đan vào các số liệu thống kê với kỹ năng của nghệ sĩ đấu bò tót,
luôn dùng để bảo vệ luận điểm và đẩy câu chuyện đi tiếp.
|
|
|
|
Thus we learn that
60 percent of the African-American population in Harlem left between 1950 and
1980.
|
|
Nhờ đó chúng ta biết được 60% người Mỹ gốc Phi ở Harlem đã rời đi trong
khoảng những năm 1950 đến 1980.
|
|
|
|
That there were
about 86 publishing houses in New York at the start of the 1980s and that
“between 1979 and 1989, 2,500 new magazines came out.”
|
|
Rằng có khoảng 86 nhà xuất bản ở New York vào đầu những năm 1980 và “từ
năm 1979 đến năm 1989, 2.500 tạp chí mới ra đời.”
|
|
|
|
From the start of
Ronald Reagan’s term to 2000, “the top 1 percent had gotten 86 percent of the
stock gains”; and New York City lost over 100,000 single-room-occupancy units
at roughly the same time New York State’s psychiatric units dumped 50,000
inmates back on the streets.
|
|
Từ đầu nhiệm kỳ của Ronald Reagan đến năm 2000, “1% người giàu nhất kiếm
được 86% lợi nhuận từ cổ phiếu”; và Thành phố New York mất hơn 100.000 phòng
đơn dành cho người thu nhập thấp đồng thời cùng lúc các bệnh viên tâm thần của
Tiểu bang New York cho 50.000 bệnh nhân ra viện.
|
|
|
|
At the nadir of
the crack epidemic, “some 150,000 New Yorkers were plying the drug trade,”
and in 1990 “2.28 million Black men were jailed in the U.S. while 23,000
earned a college degree.”
|
|
Vào thời kỳ đen tối nhất của nạn dịch ma túy, “khoảng 150.000 người New
York tham gia buôn bán ma túy,” và vào năm 1990 “2,28 triệu người da đen bị bỏ
tù ở Mỹ trong khi 23.000 người có bằng đại học.”
|
|
|
|
And that “by the
end of 1983, New York’s entire contribution to AIDS services and education
totaled $24,500.”
|
|
Và rằng “cuối năm 1983, toàn bộ đóng góp của thành phố New York cho các dịch
vụ phòng chống AIDS và giáo dục tổng cộng là 24.500 đô la.”
|
|
|
|
Dyja’s narrative
starts with the decline of what he calls, with only faint irony, “The
Workers’ Paradise,” the legendary working-class/middle-class city that
emerged after World War II with a million manufacturing jobs and what was —
for America — an unrivaled social welfare state.
|
|
Câu chuyện của tác giả Dyja bắt đầu bằng thời suy tàn của cái tác giả có
phần mỉa mai gọi là “Thiên đường của người công nhân,” thành phố huyền thoại
của tầng lớp lao động/trung lưu nổi lên sau Thế chiến II với hàng triệu công
việc sản xuất và từng là — đối với nước Mỹ — một bang có phúc lợi xã hội
không đâu sánh bằng.
|
|
|
|
But even this
fabled New York, as he notes, “existed during a period of exclusion” for most
citizens who did not happen to be white, and crumbled under the batterings of
deindustrialization, corruption, mismanagement and the usual neglect from
Washington and Albany.
|
|
Tác giả chỉ ra ngay cả New York huyền thoại này cũng "tồn tại trong
thời kỳ loại trừ" đối với hầu hết những công dân không phải người da trắng,
và suy sụp dưới sự tàn phá của phi công nghiệp hóa, tham nhũng, quản lý yếu
kém và thái độ bỏ bê thường thấy từ Washington và Albany.
|
|
|
|
Its aura lingered
on, though, complicating things for those trying to forge a new city.
|
|
Tuy nhiên, hơi hướng của thời kỳ ấy vẫn còn vương lại, làm phức tạp mọi
thứ đối với những người đang cố gắng xây dựng một thành phố mới.
|
|
|
|
(When a woman
urged Ed Koch to “make the city what it once was,” the mayor told her with
characteristic bluntness, “Lady, it was never that good.”)
|
|
(Khi một phụ nữ kêu gọi Ed Koch “hãy biến thành phố trở lại như xưa,” thị
trưởng đáp lại với thái độ thẳng thừng rất đặc trưng, “Thưa bà, thành phố
chưa bao giờ tốt đến vậy đâu.”)
|
|
|
|
What to do?
|
|
Phải làm gì đây?
|
|
|
|
Dyja frames the
struggle as a fundamental shift in how New York operated, “from mass society
to networks,” with “the collective world of unions, borough machines, the
archdiocese and even the Mob” giving way “to one of individuals who define
themselves primarily by the networks they belong to.”
|
|
Tác giả Dyja cho rằng cuộc đấu tranh là thay đổi cơ bản trong cách vận
hành của New York, “từ xã hội đại chúng sang các mạng lưới,” với “thế giới hợp
tác của các công đoàn, bộ máy khu vực, tổng giáo phận và thậm chí cả các băng
đảng” nhường chỗ cho “một trong những cá nhân tự xác định mình dựa vào các
nhóm mạng lưới họ tham gia."
|
|
|
|
As he neatly puts
it: “Information took over from Industry.”
|
|
Tác giả tóm lại như sau: "Thông Tin lên ngôi thay
cho Công Nghiệp."
|
|
|
|
I’m not sure this
is as much of a change as Dyja believes it to be — but then, this is a good
book to argue with.
|
|
Tôi không chắc đây có phải thay đổi lớn như tác giả Dyja nghĩ hay không —
nhưng dù sao đây cũng có thể coi là cuốn sách hay.
|
|
|
|
I, for one, don’t
think that Christo and Jeanne-Claude’s “The Gates” did a thing for Central
Park.
|
|
Tôi chưa bao giờ cho rằng cuốn “The Gates” (Những cách cổng) của Christo
và Jeanne-Claude thực sự miêu tả chính xác về Central Park (Công viên Trung
tâm).
|
|
|
|
I believe Dyja
exaggerates wildly when he describes New Yorkers as so shellshocked by 1990
that they “turned their self-imprisonment into a trend; they became couch
potatoes.”
|
|
Tôi tin là tác giả Dyja phóng đại hơi quá khi miêu tả người dân New York
là những người bị sốc nặng với năm 1990 đến nỗi họ “biến việc tự giam mình
thành xu hướng; trở thành người lười biếng, ngồi suốt ngày trước TV."
|
|
|
|
And as someone who
has lived his entire adult life in New York, beginning almost two years
before “I Love New York Day,” I vehemently deny the claim, forwarded from the
Koch parks commissioner Gordon Davis, that Urban Park Rangers had to “help
New Yorkers relearn how to behave in the city at large.”
|
|
Và với tư cách là người sống cả cuộc đời khi đã trưởng thành ở New York,
bắt đầu gần hai năm trước thời điểm “Tôi yêu Ngày New York,” tôi kịch liệt phủ
nhận lời tuyên bố, bắt đầu từ ủy viên công viên Koch là Gordon Davis, cho rằng
Kiểm lâm Viên Đô thị “nhìn chung đã phải giúp người dân New York học lại cách
cư xử trong thành phố."
|
|
|
|
The acting out
that Dyja and Davis refer to was largely the doing of the young and the
crazy, and if the rest of us did not always interfere it was mostly because
of a sentimental attachment to things like our teeth.
|
|
Phản ứng được tác giả Dyja và Davis đề cập tới phần lớn là hành động của
những thanh niên trẻ tuổi và điên rồ, và nếu những người còn lại như chúng
tôi không phải lúc nào cũng can thiệp thì phần lớn là bởi chúng tôi lo cho
hàm răng của mình.
|
|
|
|
But go have your
own argument with Dyja; you will enjoy it.
|
|
Nhưng hãy tự tìm lý lẽ của bạn với tác giả Dyja; bạn sẽ thích cho xem.
|
|
|
|
In our current
atmosphere of political fanaticism and fantasy, his reasoning is a joy, as
are his sense of nuance and his willingness to question his own assumptions.
|
|
Trong bầu không khí chính trị cuồng tín và ảo tưởng hiện nay của chúng
ta, cách lập luận của tác giả mang lại niềm vui, và những sắc thái tinh tế và
thái độ sẵn sàng tự vấn về những định kiến của bản thân tác giả cũng vậy.
|
|
|
|
He elides what he
calls the “morality play” that has warped most arguments about New York for
the last 40 years, giving each mayor his due — and his skewering — with
astonishing objectivity, and each genuine reformer the benefit of the doubt.
|
|
Tác giả lướt qua cái ông gọi là "vở kịch đạo đức" từng làm méo
mó hầu hết các cuộc tranh luận về New York trong suốt 40 năm qua, thừa nhận
điểm tốt của từng vị thị trưởng — và cả những chỉ trích — với thái độ khách
quan đáng kinh ngạc, và tạm tin vào các nhà cải cách thực thụ.
|
|
|
|
He looks at the
city from all points of view, from that of the poorest outsiders to the
Masters of the Universe, and best of all he brings to life the volunteers,
everyday New Yorkers, who stepped forward to save their city when it needed
them most.
|
|
Tác giả nhìn thành phố từ mọi góc độ, từ góc nhìn của những người ngoài
cuộc nghèo nhất cho đến những người siêu giàu và quyền lực, và trên hết tác
giả miêu tả sống động những tình nguyện viên, những người dân New York phổ
thông, những người đứng lên cứu lấy thành phố khi thành phố cần họ nhất.
|
|
|
|
What they
accomplished was remarkable, as Dyja recognizes, a New York that was and is —
at least pre-Covid — wealthier, healthier, safer, greener, longer-lived and
more modern than it has ever been.
|
|
Những gì họ đạt được thật đáng kinh ngạc, như tác giả Dyja nhận định, một
New York đã và đang — ít nhất trước thời kỳ Covid — giàu có hơn, lành mạnh
hơn, an toàn hơn, xanh hơn, sống thọ hơn và hiện đại hơn bao giờ hết.
|
|
|
|
The city has
absorbed an entire Philadelphia’s worth of immigrants, from all over the
world, more than 1.5 million new Americans since 1978, two-thirds of whom
live in Brooklyn and Queens and have transformed those boroughs into the
dynamic places they are today.
|
|
Thành phố thu nhận lượng người nhập cư ngang với dân số Philadelphia, từ
khắp nơi trên thế giới, hơn 1,5 triệu người Mỹ mới kể từ năm 1978, 2/3 trong
số họ sống ở Brooklyn và Queens và rồi biến những nơi đó thành khu vực năng động
như ngày nay.
|
|
|
|
They are “half of
the city’s accountants and nurses, 40 percent of its doctors, real estate
brokers and property managers.”
|
|
Họ chiếm “một nửa số kế toán viên và y tá của thành phố, 40% số bác sĩ,
nhân viên môi giới bất động sản và quản lý tài sản ở đây.”
|
|
|
|
Dyja celebrates
how the city has indeed managed to monetize its culture in a postindustrial
world, between tourist sites, high art and hip-hop, “New York’s most globally
influential cultural invention.”
|
|
Tác giả Dyja ca ngợi phương thức thành phố thực sự thành công kiếm tiền từ
nền văn hóa của mình trong thế giới hậu công nghiệp, giữa các địa điểm du lịch,
nghệ thuật và hip-hop, “phát minh văn hóa có ảnh hưởng toàn cầu nhất của New
York.”
|
|
|
|
And yet, for Dyja,
New York has become in too many ways a victim of its own success, or
“oversuccess,” as Jane Jacobs called it.
|
|
Tuy nhiên, đối với tác giả Dyja, New York theo nhiều cách đã trở thành nạn
nhân bởi chính thành công của mình, hay “quá thành công,” như cách gọi của
Jane Jacobs.
|
|
|
|
In the end, “too
many good ideas, practical strategies and necessary temporary measures became
permanent, inflexible policies applied to a place in constant flux.”
|
|
Rốt cuộc, “quá nhiều ý tưởng hay, chiến lược thực tế và các biện pháp cần
thiết tạm thời đã trở thành những chính sách vĩnh viễn, không linh hoạt được
áp dụng vào một nơi luôn thay đổi liên tục.”
|
|
|
|
A “proactive”
police department that he credits with helping crush crime has devolved in
many cases into what he calls racist “security guards and mercenaries”
abusing their power.
|
|
Một sở cảnh sát “năng động” được tác giả ghi nhận là góp phần tiêu diệt tội
phạm trong nhiều trường hợp đã trở thành cái tác giả gọi là “nhân viên bảo vệ
và lính đánh thuê” phân biệt chủng tộc lạm dụng quyền lực.
|
|
|
|
Runaway real
estate speculation created a “Luxury City,” with more and more of it
privatized by parks “conservancies” and business improvement districts,
housing more and more unaffordable, small businesses steamrollered by chains
and mega-developments, and the Upper East Side reduced to “a kind of jewelry
store now,” with “a third of the apartments between 49th and 70th between
Fifth and Park … vacant 10 months a year, owned by shell companies and
L.L.C.s.”
|
|
Đầu cơ bất động sản dễ dàng đã tạo ra một “Thành phố xa hoa,” với ngày
càng nhiều khu vực được tư nhân hóa bằng các công viên “khu bảo tồn” và các
khu phát triển kinh doanh, nhà ở ngày càng trở nên đắt đỏ, các doanh nghiệp
nhỏ bị nghiền nát bởi các cửa hàng chuỗi và đại công xưởng, và khu Upper East
Side “hiện giờ chỉ còn là cửa hàng trang sức,” với “một phần ba số căn hộ từ
số 49 đến 70 giữa đại lộ Fifth và Park… bị bỏ trống suốt 10 tháng một năm,
thuộc sở hữu của các công ty ma và công ty trách nhiệm hữu hạn.”
|
|
|
|
The original sin
was tying so much of New York’s fate to Wall Street, a dependence that has
grown exponentially over the years, and that has set the city’s economy on
its seemingly endless roller coaster ride.
|
|
Sai lầm căn bản là do gắn quá nhiều số phận của New York vào Phố Wall,
tình trạng phụ thuộc này tăng lên theo cấp số nhân trong những năm qua và điều
đó đặt nền kinh tế của thành phố vào tình trạng thay đổi thất thường dường
như kéo dài vô tận.
|
|
|
|
A trillion dollars
“evaporated” after the 1987 stock market crash, nearly $4 trillion after the
2000 slump.
|
|
Một nghìn tỷ USD "bốc hơi" sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ
năm 1987, gần 4 nghìn tỷ USD sau đợt suy thoái năm 2000.
|
|
|
|
And at the same
time, like a bad dream, the city’s poverty levels have remained intractable,
today “around 20 percent, with another 20 percent highly vulnerable” — or 3.4
million people in all — and “almost 50,000 people sleeping on the streets any
given night.”
|
|
Và đồng thời, giống như cơn ác mộng, mức độ đói nghèo của thành phố vẫn
không thuyên giảm, ngày nay “là khoảng 20%, với 20% khác thuộc nhóm dễ tổn
thương” — tổng cộng là 3,4 triệu người — và “gần 50.000 người ngủ ngoài đường
mỗi đêm.”
|
|
|
|
“The result” —
well before the pandemic — “was a city flush with cash and full of poor
people, diverse but deeply segregated, hopeful yet worryingly hollow
underneath the shiny surface,” Dyja declares.
|
|
“Kết quả” — trước đại dịch — “là một thành phố ngập tràn tiền mặt và đầy
rẫy những người nghèo, đa dạng nhưng chia rẽ sâu sắc, tràn trề hy vọng nhưng
lại rỗng tuếch đáng lo ngại bên dưới bề mặt hào nhoáng,” tác giả Dyja tuyên bố.
|
|
|
|
What is to be
done?
|
|
Cần làm những gì?
|
|
|
|
Dyja sees the need
for another reinvention of New York, though he offers no easy answers —
probably because there are none.
|
|
Tác giả Dyja nhận thấy cần thiết phải tái tạo một New York khác, mặc dù
tác giả không đưa ra đáp án đơn giản nào — có lẽ bởi không có đáp án.
|
|
|
|
He can counsel
only that which has worked best, when it has been tried, which is
selflessness, moderation, involvement, empathy, creativity; “a New York built
on a bedrock of justice, not just noblesse oblige.”
|
|
Tác giả chỉ có thể khuyến nghị điều gì từng có hiệu quả tốt nhất, khi nào
từng được thực hiện, đó chính là vị tha, chừng mực, dấn thân, đồng cảm, sáng
tạo; "một New York được xây dựng trên nền tảng của công lý, chứ không chỉ
là nghĩa vụ nhân nghĩa cao thượng."
|
|
|
|
But he has
already, in this outstanding work, done all that a historian can do to light
the way forward, by so vividly illuminating the past.
|
|
Nhưng trong tác phẩm xuất sắc này, tác giả đã làm tất cả những gì một sử
gia có thể làm để soi sáng con đường phía trước, đó là làm sáng tỏ quá khứ.
|